Thứ Bảy, 23 tháng 10, 2010

Thiền Sư và Cô Lái Đò


THIỀN SƯ VÀ CÔ LÁI ĐÒ


Cô lái đò đưa khách qua sông. Đò cập bến cô lái thu tiền từng người.
Sau hết đến nhà sư.
Cô lái đò đòi tiền gấp đôi.
 
Nhà Sư ngạc nhiên hỏi vì sao?
 Cô lái mỉm cười: 
- Vì Thầy nhìn em… 
Nhà sư nín lặng trả tiền và bước lên bờ.

Một hôm nhà sư lại qua sông. Lần nầy cô lái đòi tiền gấp ba. 
Nhà sư hỏi vì sao?
Cô lái cười bảo:
 
- Lần nầy Thầy nhìn em dưới nước.
Nhà sư nín lặng trả tiền và bước lên bờ.


Lần khác nhà sư lại qua sông. 
Vừa bước lên đò nhà sư nhắm nghiền mắt lại đi vào thiền định. 
Đò cập bến cô lái đò thu tiền gấp năm lần. 
Nhà sư hỏi vì sao? 
Cô lái đáp: 
- Thầy không nhìn nhưng còn nghĩ đến em.
Nhà sư trả tiền và lên bờ.


Một hôm nhà sư lại qua sông. 
Lần nầy nhà sư nhìn thẳng vào cô lái đò.
Đò cập bến, nhà sư cười hỏi lần nầy phải trả bao nhiêu?
Cô lái đáp:
 
- Em xin đưa Thầy qua sông, không thu tiền. 
Thiền sư hỏi: 
- Vì sao vậy?
Cô lái cười đáp:

- Thầy nhìn mà không còn nghĩ tới em nữa.
Do vậy em xin đưa Thầy qua sông mà thôi.

Nguồn: Vườn Thiền

Quan niệm về chữ Hiếu trong Đạo Cao Đài




QUAN NIỆM VỀ CHỮ HIẾU 
TRONG ĐẠO CAO ĐÀI
Chí Đạt

Sau đây xin trích một vài đoạn trong bài "Suy nghĩ về cội nguồn truyền  thống dân tộc" của nhà nghiên cứu khoa học xã hội Thanh-Lê: Truyền thống của dân tộc ta chỉ tiến lên về phía trước và tiến tới thắng lợi hoàn toàn. Thật vậy, vào năm thứ 40 Trưng-Trắc và Trưng-Nhị đã lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa chống lại triều đình nhà Hán xâm chiếm nước ta. Sau khi đất nước giải phóng Trưng-Trắc được suy tôn lên làm vua. Nhà thơ Thanh-Phong đã nói lên :
"Trưng-Nữ-Vương thật phi thường,
Thù nhà nợ nước quật cường đấu tranh.
Trong gian khổ quyết giành thắng lợi,
Đuổi ngoại bang rời khỏi cõi bờ,
Thường tình nhi nữ ai ngờ;
Tung gươm giết giặc phất cờ vinh quang".
Hay : "Trưng-Vương xưa cũng nữ nhi,
Đeo gươm bảy thước kém gì tài trai";
Và : "Tinh thần cao thấp nhờ thi,
Giục tài nữ sỹ sánh bì cùng nam."
(Đoàn-Thị-Điểm)
Đến thế kỷ thứ III, bà Triệu xuất hiện với tài thao lược chỉ huy quân lính đánh hàng trăm trận làm cho quân thù phải tìm đường bỏ xác tháo chạy. Hình ảnh uy dũng ấy đã sống mãi trong lòng dân tộc:
"Và sau  đó trung cang Triệu-Ẩu,
Đã bao phen chiến đấu diệt thù,
Giữ gìn tổ quốc thiên thu,
Âm vang sống mãi lời ru ngọt ngào,…"

Hay có câu: "Gánh gồng gái cũng như trai,
Liều thân cứu nước nên vai nữ thần."
Dưới triều Lý vào thế kỷ thứ IX có bà Ỷ-Lan là người tài nghệ cao cường thông minh, có tài trị nước, có sức mạnh đoàn kết toàn dân chống xâm lược.Truyền thống nối tiếp truyền thống có nữ tướng Lê-Chân, Bùi- Thị-Xuân, … từ các vua Hùng đến các nữ tướng kiệt xuất đó, từ thế hệ này qua thế hệ khác đều là con cháu Quốc mẫu Aâu-Cơ. Điều đáng làm cho thế hệ chúng ta lấy làm tự hào là với chính sách hủy diệt đồng hóa của phong kiến phương Bắc, dẫu vơ vét đốt sạch các văn tự, sách vỡ thành đóng tro tàn nhưng không thể nào đốt được tinh thần bất khuất hay xóa nhòa gốc tích của dân tộc Việt-Nam được. Tiếp theo đó là hơn 80 năm nô lệ dưới chế độ thực dân Pháp với chính sách chia để trị, "máu chảy ruột mềm" nhân dân ta đã đoàn kết một lòng chiến đấu đến thắng lợi cuối cùng với chiến dịch Hồ-Chí-Minh lịch sử đã đánh bại đế quốc Mỹ xâm lược.
Với chiến thắng mùa Xuân năm 1975, Tổ quốc Việt-Nam thu về một mối và càng có điều kiện từ nay trở về với cội nguồn dân tộc sau hàng thế kỷ ôm ấp nhưng phải đương đầu với bão táp mưa sa gió cuốn, chịu những nỗi bất hạnh khủng khiếp, những tai họa kinh hoàng đến nỗi ta không dám nghĩ đến vì luôn có sẵn những thế lực bên ngoài tác động, hủy diệt, tàn phá,…
Lần về cội nguồn dân tộc là tìm đến người mẹ của dân tộc Việt- Nam ta : "Quốc mẫu Âu-Cơ". Thật là cảm động khi nghe 2 câu đối:
"Nhìn non thương nghĩa Mẹ
Trông biển nhớ ơn Cha". 
Đã là con Hồng cháu Lạc, chúng ta cần đội ơn các nhà lịch sử, khảo cổ dân tộc,… đã khẳng định được sự xuất hiện của Tổ quốc Việt-Nam để con cháu nối tiếp truyền thống, và không thể nào quên công lao của những người đã tạo lập nên những di tích mang tính chất lịch sử như đền thờ các vua Hùng, Tổ đình Quốc Tổ Lạc-Hồng và nơi thờ các vị anh hùng dân tộc,…Đó là những dấu nhắc ẩn sâu vào nền văn hóa của dân tộc, vào tâm khảm của mọi người dân Việt-Nam với tình thương yêu cổ xưa nhất ngàn đời và cũng viõ đại nhất là tình yêu đối với các bậc Công Thần xây dựng nên Tổ quốc Văn-Lang. Đó chính là sự báo hiếu của mọi người đối với Cha Mẹ khai sinh giòng giống Bích-Ngọc và đất nước Việt-Nam anh hùng.
Như vậy, hằng năm mỗi lần đến Ngày mùng 1 (Âm lịch) tháng Giêng là Tết Nguyên-Đán, chính ngày ấy là Ngày đại lễ vía Quốc phụ Lạc-Long-Quân hay còn Tết cổ truyền dân tộc, mà cũng là Ngày vía đức Đương Lai Hạ Sanh Phật Vương Di Lạc Thiên Tôn. Là người Việt-Nam chúng ta luôn khắc cốt ghi tâm vị Quốc tổ của giống nòi; ngoài ra còn phải luôn tưởng nhớ đến Ngày lễ vía Quốc mẫu Âu-Cơ mùng 5 tháng 5 (âm lịch) :
"Tháng năm ăn Tết Đoan-Dương,
Nhớ ngày Giỗ Mẹ Việt-Thường Văn-Lang."
Trước khi trở thành Quốc lễ Hùng-Vương mùng 10-03 âm lịch, nhà thơ Hồ- Hậu-Duệ đã có bài thơ GIỖ TỔ HÙNG-VƯƠNG :
"Mùng Mười âm lịch tháng Ba,
Cùng nhau kỉnh lễ Giỗ CHA Tiên-Rồng.
LẠC-LONG-QUÂN-PHỤ tiên phong,
ÂU-CƠ TIÊN-MẪU dày công tạo gầy.
Trăm con tài đức đủ đầy,
HÙNG-VƯƠNG nối tiếp dựng xây giống nòi.
Khai sơn, phá thạch, đắp bồi,
Mở mang bờ cõi rạng ngời núi sông.
Hỡi ai giòng máu Lạc-Hồng ?!?
Trọng Cha, kính Mẹ dặn lòng hiếu trung.
Nước non xinh đẹp lạ lùng.
Nhờ bao thế hệ anh hùng uy linh.
Hồn thiêng sông núi vẹn gìn,
Nay ta trọn hưởng thắm tình quê hương.
Đền ơn đáp nghĩa cang thường,
Dặn lòng chung thủy, kỷ cương đứng đầu.
Dù ai đi ngược về đâu?
Nhớ ngày Giỗ Tổ hướng chầu tổ tiên.
Anh linh tú khí diệu huyền,
Núi sông rạng rỡ, hồn thiêng sáng ngời./.
Hay : "Dù ai đi ngược về xuôi,
Nhớ ngày Giỗ Tổ mùng Muời tháng Ba"

(Ca Dao) 

Và để từng bước cảm thông, chia sẻ tấm lòng của cha mẹ và bên cạnh có nỗi niềm của thầy cô giáo, ở vị trí và bổn phận làm con xin xem qua bài thơ KHUYÊN CON của nhà thơ Thanh-Phong:
"Công cha, nghĩa mẹ, ơn thầy,
Cưu mang, đùm bọc đong đầy khổ tâm.
Dưỡng nuôi cực nhọc lặng thầm,
Sữa cho bú mớm nuốt ngầm từng giây.
Lớn dần,… lừa cá cơm nhai,
Đút ăn từng muỗng sợ đầy miệng con.
Có khi sặt sụa đau lòng,
Và rồi từng lúc tập dần bước đi.
Lỡ chân vấp ngã nằm y,
Thịt da trược sướt tức thì quặng đau.
 

Con ơi, con biết chăng nào ?
Xương cha, máu mẹ chia vào thân con.
Dần dà con đặng vuông tròn,
Quà bánh, sách vở, áo quần, đồ chơi,…

Rồi khi mưa gió trở trời,
Ốm đau cha mẹ phải ngồi canh thâu;
Chạy lo thầy thuốc cạnh cầu,
Thuốc men các loại mạch sầu chơi vơi.
 

Con dần khôn lớn với đời,
Món ăn, vật lạ, vui chơi, học hành;
Đến kỳ khoa cử ghi danh,
Mong sao con đặng công thành tuổi tên.
 

Nghề nghiệp, công việc tạm yên;
Đến ngày cưới gã thống truyền tổ tiên.
"Nhơn, nghĩa, lễ, trí, tín" liền,
Hiếu trung là gốc, mối giềng tam cang.
 

Tổ quốc, trường học, gia đàng,
Ba nghĩa vụ đó luôn mang trong lòng.
Con ơi, nguồn cội Lạc-Hồng;
Đền ơn đáp nghĩa giống giòng Việt-Nam./.
Mặt khác, đứng về phương diện tâm linh, con người là một linh thể, tức là có  linh hồn và thể xác, nhưng phần linh hồn luôn điều động thể xác được thể hiện qua các quan niệm sau:
Theo quan niệm của Thông-Thiên-Học, con người gồm có 3 thể hay còn gọi là 3 hột nguyên tử trường tồn (atome permanent). Xin trích nguyên văn một đoạn (trang 85) trong quyển Con đường giải thoát:
Ba hột nguyên tử trường tồn là : Một hột ở xác thân, một hột ở thể vía, một hột ở thể trí. Ba hột nầy như ba cái máy thu thanh, có 3 cuộn phim để ghi tất cả những gì đã nghe, thấy và làm, cũng như máy vô tuyến truyển hình, truyền thanh ghi tất cả tiếng nói, hành động nghe, thấy của tất cả mọi người, như cái dĩa hát, thâu ghi tiếng hát.
Hột nguyên tử của xác thân(corps physique) : Ghi những gì do xác
thân làm, như tham ăn, thích uống, hút á phiện, ham dục tình,v.v…

Hột nguyên tử của thể vía(corps astral): Ghi gịân hờn, oán ghét,
Suy nghĩ điều ác, ghanh gỗ, tham lam ngã lòng, nhủn chí và những xúc động về tình cảm,v.v…
Hột nguyên tử của thể trí (corps mental): Ghi kiêu căng, phách lối,
tự đắc, tự cao, khinh khi kẻ khác, suy nghĩ điều lành và những ý chí & lý tưởng, v.v…

Muốn biết việc làm, nghe, thấy, suy nghĩ hằng triệu năm trước cho.
Đến ngày nay, cứ phăng cuộn phim của ba hột trường tồn thì biết tất cả. Cuộn phim ấy Thông-Thiên-Học gọi là Văn-khối vô thủy vô chung (Archives Akasiques).
Đấng Cầm Cân Tội Phước (Le seigneur du Karma) trước khi cho linh hồn nào xuống thế để làm quan, làm tướng, hay là ăn xin (ăn mày) điều căn cứ vào việc lành dữ đã ghi nơi ba hột trường tồn, rồi cho linh hồn ấy xuống đầu thai vào ngày giờ tốt, xấu do "Tử-Vi" đã định sẵn, do đó mà nhà Tử-Vi có kinh nghiệm nhiều, sau khi biết đùng giờ, ngày, tháng, năm sanh của một linh hồn nào đã nhập thế, là biết được tương lai của nó.

Một vong linh hay một người đã chết rồi, hồn nó xuống cơ hay nhập cốt, cũng thấy và nói được dễ dàng những gì chúng ta đang tưởng tượng hoặc đã làm trong mấy ngày trước hoặc nhiều năm trước tùy theo trình độ tiến hóa hiểu biết của vong linh ấy, vì việc làm đã qua đều ghi trong hạt nguyên tử trường tồn, mà vong linh hay người ấy đã thấy được.
Thế thì mọi hành động lành dữ của con người không thể nào giấu giếm được khi đứng trước đấng Cầm Cân Tội Phước hay là đứng trước một người có huệ nhãn. Biết được như thế, thiết tưởng không nên dại dột làm nên tội lỗi, hoặc có những tư tưởng hung ác, xấu xa để làm cho hoen ố linh hồn, để rồi sau nầy bị luật Trời trừng phạt. Lưới Trời đã bủa giăng khắp mọi nơi, dầu một việc làm giấu kín trong đêm tối, hoặc nơi chốn vắng vẻ không người, hoặc trong hang núi, hoặc ở sâu trong quả đất, bất cứ nơi đâu đều có lưới Trời bủa giăng và ghi lại trong ba hột trường tồn. Cổ nhân có câu : "Thiên võng khôi khôi sơ nhi bất lậu".
Và ĐỨC GIÁO-TÔNG VÔ-VI có dạy:
"Hãy giữ chơn linh đặng trọn lành,
Ngọc - Hư toàn ngự đấng tinh anh,
Thiên điều Cổ-Phật không chừa tội,
Hình phạt Chí-Tôn chẳng vị tình.
Chánh trực kinh oai loài giả dối,
Công bình vừa sức kẻ chơn thành.
Mũi kim chẳng lọt xưa nay hẳn;
Biết sợ xin khuyên cẩn thận mình"
Theo quan niệm của Đạo Cao-Đài, trong con người có 3 phần:
Chơn linh hay linh quang, còn gọi là linh hồn do đức Ngọc-
Hoàng Thượng-Đế ban cho, nó vô hình và luôn hằng hữu bất diệt mà Thông - Thiên-Học gọi là thể trí.

Chơn thần hay linh căn chơn tánh là đệ nhị xác thân, nó vừa
Hữu hình và vừa vô hình do đức Diêu-Trì Kim-Mẫu ban phát, Thông-Thiên-Học gọi làthể phách.

Thể xác hay xác thân là vật chất do tinh cha huyết mẹ ở trần gian
tạo thành, nó hữu hình thì hữu hoại, mà Thông-Thiên-Học gọi là xác phàm.

Theo quyển Ngọc-Lộ Kim-Bàn, đức Diêu-Trì Kim-Mẫu ban
cho 96 ức linh căn chơn tánh tại Kim-Bàn, hóa thành hình người chạy lại giành mỗi vị một túi báu vật có tên gọi Vạn-Bửu-Nan, trong đó có chứa 8 món báu là : Hiếu, Để, Trung, Tín, Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ mà chữ Hiếu cao quý hơn hết. Xin trích nguyên văn một đoạn, trang 67, 68 như sau:

"…..Nói về lúc linh căn bái từ Lão-Mẫu mà xuống thế, phía bên hữu có 1 vị Thiên Thần hiệu là Cù-Tán-Đởm, Lòng hiểm tánh cao, thấy chúng linh căn bái từ Lão-Mẫu mà chẳng nói đến y, trong lòng nổi giận, bỏ Lão-Mẫu dắt 5 con ma trốn xuống trần, đặng biến ra việc hại mà ngăn trởchúng linh căn chẳng đặng trở về.
Cù-tán-Đởm dẫn 5 con ma bay ra ngoài Huỳnh-Tiêu-Thiên, tạm ở trong biển Bắc chỗ dưới Vỹ-Lư-Quan (nước biển phải tùng cái quan đó mới phân thanh trược) đến chừng có kỳ hội khai y ra biến hóa mà làm loạn trong Chánh-Đạo, như hồi mấy khi trước, Si-Du, Thông-Thiên, Dương-Châu, Mặc-Địch, Huỳnh-Cân, mấy người đó cũng là ra phá Đạo. Năm con ma theo đó là : Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, y sai biến làm 5 thứ dục hải mà buộc ràng chúng linh căn, cướp đoạt cái túi Vạn-Bửu-Nan và 8 món báu đặng khiến cho linh căn chẳng đặng hoàn nguyên phản bổn, nó dẫn vào trong địa ngục mà chịu tội. Năm com ma ùng lên một tiếng đi xuống trần thế biến hóa.
Kim ma biến thành của báu, tiền bạc (nhà lầu, xe hơi, vàng
ngọc,…) nó buộc cái thân của người. Mộc ma biến làm mỹ sắc (người đẹp) nó làm mê chơn tánh của người. Thủy ma biến làm rượu cao (bia) nó mạnh cái đởm của người. Hỏa ma biến làm khí giận (nóng) nó đông cái oai của người. Thổ ma biến làm nha phiến (cần sa, ma tuý) nó làm cho khô cái thể của người. Chín mươi sáu ức chơn tánh linh căn đều bị trong Tửu, Sắc, Tài, Khí. Yêu nó phá điên điên đảo đảo, loạn loạn mê mê, chẳng nhớ đến hồi khi mẹ dặn, ham theo việc trân vui chơi, chẳng muốn đi ngồi tòa sen,…"

Như vậy, chữ hiếu đối với cha mẹ vô hình tức là Trời Đất, đã ban cho chúng ta chơn linh, chơn thần mà mọi tín hữu Cao-Đài chúng ta phải đầy đủ hùng tâm dũng chí, với nghị lực ý chí phi thường mới gìn giữ được Bát cẩm nang ấy (trong đó chữ hiếu là món báu quan trọng hơn hết).
Câu ca dao đã thấm sâu lòng người mà nền giáo lý của Phật-giáo thường nhắc nhở "Tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật" có câu:
"Gió đưa cành trúc la đà,
Mẹ cha còn sống Phật Đà hiện thân".
Vào ngày Lễ Trung-ngươn Rằm tháng bảy, hay Lễ Vu-Lan Thắng-Hội, chúng ta thường được nghe thuyết pháp hoặc nghe truyện tích Đại hiếu Mục-Kiền-Liên, dù Ngài đã Bồ-Tát đã được đệ nhất thần thông nhưng chưa cứu được Mẹ là bà Thanh-Đề, mà phải kỉnh nhờ đức Phật hướng dẫn cách giải cứu qua sự giúp đỡ của chư Tăng hội hiệp cùng trì kinh siêu độ cho mẹ vào Ngày Tự tứ (15-7 âm lịch), mà bà Thanh-Đề được siêu thoát. Xin trích một đoạn Thánh giáo Cao-Đài, như sau:
"… Mục-Liên đảnh lễ đền ơn,
Thầy là Từ Phụ đáp đền trọng thay!
Con nay bái tạ Như-Lai,
Xin Thầy giảng tiếp một bài hiếu ân.
Làm sao vẫn kính song thân,
Cho tròn phước báu vẹn phần sáng trong.
Người là đệ tử đoạt thông,
Nhãn nhỉ tỉ thiệt thân không nhuốm trần.
Đây là Ta dạy cân phân,
Ngươi nên thanh tịnh vẹt lần khí đen.
Mục-Liên mừng rỡ lời khen,
Xin Thầy dạy pháp thắp đèn lưu ly.
Thành tâm báo hiếu hạnh qui,
Đến Rằm tháng bảy thực thi hóa hoằng.
Trai tăng chí kỉnh số đông,
Mười phương chư Phật cũng đồng hồi nguyên.
Trung ngươn báo hiếu hạnh thiền,
Là ngày ân xá xích xiềng hồn oan!
Ngươi mau trở lại Tây phang;
Cầm cây phướng trắng dẫn đàng trai tăng…"

Hay: "Mục-Liên "Báo Hiếu Trọng Ân" duyên,
Thí pháp trai tăng cứu mẹ hiền,
Rải điễn oai năng chư chúng hội;
Thanh-Đề thoát ngục khổ triền miên"
Thanh-Đề Bồ-Tát 
Truyện thơ "Nam-Hải Quan-Âm" đã kể lại công chúa Diệu -Thiện xuất gia đi tu và sau đó cảm hóa, chuyển độ cho vua cha hung ác trở lại thành người tĩnh ngộ. Đó chính là đại hiếu vậy:
"Chân như đức Phật rất mầu,
Tâm trung chữ hiếu, niệm đầu chữ nhân,
Hiếu là độ được song thân,
Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài".
Vào khoảng giữa năm Ất-Sửu (1925) trước thời kỳ Khai Đạo Cao-Đài có cô Vương-Thị-Lễ, một vị Nữ Phật thứ 7 tức là Thất Nương Diêu-Trì Cung (trong hàng Cửu vị Nữ Phật hầu đúc Từ-Tôn Vô-Cực) thường xuyên giáng cơ về cảm hóa các vị Tiền bối dần dần nhiễm mùi đạo qua những bài thi văn vô cùng thâm thúy, ý nhị. Đến năm 1929, khi hay tin thân phụ là Vương-Quan-Trân (anh cụ Vương-Quan-Kỳ) qui liễu, bị tội đọa ở Âm phủ. Thất Nương lén bỏ Diêu-Trì-Cung lặng lẻ xuống Diêm đài để thức tĩnh cha nên bị Ngọc-Hư-Cung đã bắt tội.
Một lần về cơ, Thất Nương đã bày tỏ nỗi niềm hiếu đạo với đức Hộ- Pháp và các vị Chức sắc Hiệp-Thiên-Đài, như sau:
"Hỏi ai có biết hiếu ra sao?
Chín chữ cù lao giá thế nào?
Hình vóc cảnh Tiên còn dính máu,
Chơn thần nước Phật giữ thai bào.
 

Nỗi riêng chưa vẹn thân từ phụ,
Nghĩa nặng đeo đai phận má hồng.
Thà xuống âm cung chia khổ tội;
Cha vầy, ai nở ngự đài cao !"
Đã là con người sinh ra trên cõi đời nầy là phải chịu đau khổ, ngay cả Thất-Nương là một vị Phật khi đầu thai xuống trần cũng không ngoài định luật ấy, mà có khổ mới học được thêm bài học tiến hóa. Đó chính là chủ trương của đức Thượng-Đế vậy!
Và khi được đặc ân của Ngọc-Hư-Cung xá tội, Thất-Nương liền tình nguyện đến cõi Âm-quang để độ rỗi các chơn hồn thất thệ, hầu đáp đền ân nghĩa cho đức Chí-Tôn:
"Hai kiếp đeo đai lắm nợ trần,
Cái thân vì khổ bận cho thân,
Niềm duyên đổ ngọc lan phòng nguyệt,
Nỗi hiếu rơi châu tưới mộ phần.
 

Giữ Đạo mong chờ ngày độ tịch,
Bán mình quyết cứu độ song thân.
 

Nước non càng ngắm càng thêm chạnh,
Chạnh thảm khi mang mảnh xác trần."
Đến đây, xin kể lại câu chuyện hiếu thảo của một người con trai đối với mẹ tại Liên-Hoa Cửu-Cung, xã Linh-Xuân, quận Thủ-Đức: "Anh Phạm-Văn-Paul, có Thánh danh Thiện-Ngôn mồ côi cha từ lúc 4 tháng tuổi, mẹ anh sanh 2 người con, chị anh có chồng và được 2 cháu, từ thuở nhỏ anh đã ăn chay trường, khi đến tuổi vị thành niên anh quyết tâm không lập gia đình với lời đại nguyện : "Xả thân hành đạo – giúp đời". Khi cha anh mất, lúc mẹ anh vừa tròn 22 tuổi, bà vẫn một lòng thờ chồng nuôi con, hy sinh lo đạo đến mãn cuộc đời, vào ngày 24-11 Nhâm-Ngọ, hưởng thọ 75 tuổi. Một đám tang hiếm có đối với người tín hữu đạo Cao-Đài vùng Thủ-Đức với sự tham dự viếng tang của nhiều đoàn thể, các chùa đình và nhất là có hơn 40 Thánh thất, Thánh tịnh trong đạo Cao-Đài, họ hàng, bạn bè, gia đình các bệnh nhân,… từ khắp nơi xa gần đã nói lên kết quả cái nghĩa tận mà hết sức là tràn trề cái nghĩa tình.
Một khi nói đến tấm gương sáng của người mẹ để lại cho các
con, và Thiện-Ngôn nói riêng, hiền huynh đã đắp bồi thêm nhiều công quả phước báu chẳng hạn như giáo dục đào tạo nhiều thế hệ thanh thiếu niên trong các ban Lễ, Nhạc, Đồng nhi, Nhà thuyền,
Thuyết minh giáo lý, Dẫn pháp và hoằng pháp trong cơ tịnh luyện,.… chưa kể đến việc Tạo tác xây dựng, Liên giao hành đạo, Điều hành tổ chức bộ máy hành chánh đạo cùng với Ban cai quản và Bổn đạo, và đặc biệt là Cứu chữa biết bao bệnh nhân với căn bệnh mãn tính, nguy kịch,… từ nhiều năm qua ở khắp mọi nơi. Khách quan và thành thật mà nói, một tín hữu Cao-Đài với tuổi đời 53 như hiền huynh đã xả thân hành đạo, phụng sự nhơn sanh, không lập gia đình tất nhiên không có con để nối dõi tông đường, thật là một sự hy sinh to lớn khó có người làm được như vậy.

Ngày trở về cõi Thiêng liêng hằng sống trong ý nghĩa phản bổn
hoàn nguyên của mẹ hiền huynh Thiện-Ngôn là một đại lễ tang được thành công viên mãn và danh dự, có thơ rằng:

"Liên bạch tỏa ngời tĩnh chúng sanh,
Sắc không, không sắc Nhị-nguyên hành,
Thanh thinh vẹn vẻ hòa tâm thức;
Hương vị nhập vào cõi Thượng thanh"
Câu truyện kể trên há chẳng phải là sự đại báo biếu đối với các
bậc sinh thành, và đối với đấng Chí-Tôn – Phật-Mẫu hay sao?

Đức Đại-Từ-Phụ hằng dạy :
"Đài vân quang võ để phong thần,
Còn Đạo Thầy đây để nhắc cân,
Muôn đức ngàn lần không sót một;
Bao nhiêu công quả, bấy nhiêu phần".
Để minh chứng điều nầy, trong quyển Dưỡng-Chơn-Tập có nói :
"Trời Đất là cha mẹ của muôn vật. Con người thờ Trời Đất cũng như thờ Cha Mẹ. Ở địa vị giàu sang phát đạt mà chẳng vượt vòng phép tắc (ỷ thế hiếp cô, …). Đương mạng vận nghèo nàn hoạn nạn mà không sai mất trung chánh (xảo trá, hà lạm,…)
Có kẻ hỏi : "Cha mẹ đã mất, làm sao mà giữ chữ hiếu?"
Trả lời: "Cái thân của con là cái thể của cha mẹ rơi để lại, rán giữ đừng để cho nó hoại, ấy là thờ cha mẹ đó".
Cái tánh của người ta là điểm sáng suốt của Trời Đất ban cho, khéo nuôi dưỡng đừng để cho nó táng, ấy là thờ Trời Đất đó".
Bạch-Tẩn Lão-Nhơn nói rằng: "Người được thành Thánh, thì kẻ khác kêu cha mẹ mình bằng Thánh phụ, Thánh mẫu. Người được thành Tiên, thì kẻ khác kêu cha mẹ mình bằng Tiên phụ, Tiên mẫu. Người được thành Phật, thì kẻ khác kêu cha mẹ mình bằng Phật công, Phật mẫu. Còn người cả đời phàm ngu thô tục (dung lục), ta chẳng biết kẻ khác kêu cha mẹ nó bằng cái gì há?!?"
Tóm lại, quan niệm chữ hiếu của Đạo Cao-Đài được thể hiện như sau:
Phải luôn có hiếu thảo với các đấng sinh thành, tức là cha mẹ
Sinh ra mình bằng xương, bằng thịt, bằng xác thể hay xác phàm trong kiếp người của cuộc đời nầy.

Phải luôn trọng hiếu với cha mẹ sinh ra dân tộc của mình.
Người Việt-Nam là con của Rồng, cháu của Tiên thì phải đền ơn đáp nghĩa Quốc phụ Lạc-Long-Quân và Quốc mẫu Âu-Cơ tạo ra nòi giống Lạc-Hồng và khai lập Văn-Lang-Quốc, nay là Quốc gia Việt-Nam.
Phải luôn hiếu kính với đức cha Ngọc-Hoàng Thượng-Đế hay
Đấng Cao-Đài sáng lập tinh cầu 68 nầy ban cho chơn linh, chủ về luật tiến hóa, và đức mẹ Diêu-Trì Kim-Mẫu ban cho chơn thần, chủ về tình thương yêu.

Và để chấm dứt bài viết nầy, xin được kết thúc bằng Điều thứ mười trong Ngọc-Kinh Huỳnh-Đạo, trang 18 ,19, 20 với lời từ huấn của đức Phật Thầy Tây An, trao truyền cho lại cho chúng ta:
"ĐIỀU chót hết MƯỜI ghi trăm nhớ,
 PHẬT (1), PHÁP, TĂNG con chớ quên ơn,
GIA ĐÌNH (2) nghĩa trọng nhiều hơn;
Tình thương xã-hội giúp cơn thiết cần.
Ơn TỔ-TIÊN (3) dành phần con đó,
 

Đó những lời dặn bảo, Thầy mong,
Con ơi, hãy khá ghi lòng !
Bấy nhiêu tâm huyết mấy dòng thi văn !./.

Chí Đạt


Ghi chú :
(1): Cổ Phật tức là Thượng-Đế và Phật-Mẫu : Cha mẹ vô vi ban chơn linh và chơn thần cho chúng ta.
(2): Nơi cha mẹ trần gian sinh ra xác phàm của chúng ta.
(3): Cội nguồn dân tộc là cha Lạc-Long-Quân và mẹ Âu-Cơ, kế tiếp là các vua Hùng-Vương ban cho chúng ta da vàng, tóc đen, chính là nòi giống Tiên Rồng vậy.

Tu Chơn Thiệp Quyết



TU CHƠN THIỆP QUYẾT


NGỌC lịnh ban hành khải cửu cung,
HOÀNG môn xuân sắc, tượng ung dung,
THƯỢNG hành hạ hiệu đô công quả,
ÐẾ Ðạo hoằng khai chiếm thượng phong.
Cung Bạch-Ngọc ngự lâm bửu tọa,
Thọ chư Thần triều hạ đã yên, (1)
Thân thân giá hạnh Nam-Thiên,
Trước xem Tam Giáo, cháu Tiên con Rồng. (2)
Ðã đôi kiếp dày công nhọc sức,
Dạy chúng-sanh kỉnh Phật thờ Trời,
Thương thay cũng tại số người,
Ngạo lời Thánh-Huấn, kỉnh lời quỉ vương!
Lòng chẳng kể cang thường là đạo,
Dạ hằng lo hung bạo làm đầu,
Thấy vầy, THẦY phải nghĩ sâu,
Tam-Kỳ Phổ-Ðộ năm Châu phen nầy.
Lời Thầy phán, rẽ mây, vén ngút,
Kinh Thầy ban, chạm ngọc khảm vàng,
Khác nào rọi đuốc chỉ đàng,
Khuyên con tạc dạ ghi xương chớ rời.
Sách chép chữ: "Khôi khôi Thiên-võng",
Ðời ghi câu: "Lộng lộng lưới giăng",
Nhặt thưa, mau chậm, cân phân,
Mựa rằng sơ sót, mắt Thần không sai.
Thầy đã dạy nhiều bài vàng đá,
Con nỡ đành chẳng dạ sắt đinh,
Con hư, Thầy phụ chẳng đành,
Con nên, Thầy được phỉ tình ước ao.
Ðời hằng nói: "Trời cao có mắt",
Sách thường biên: "Thái nhứt vô hình", (3)
Minh mông, đồ sộ, rộng thinh,
Mà soi xét đủ tình hình thế gian.
Ðây giáng bút ít hàng vắn tắt,
Ðặng trao lời vuông tấc nhiệm mầu,
Chớ rằng: chẳng tiếng cao sâu,
Khuyên thường chữ dạ, mựa hầu sai ngoa.
Ơn cúc dục: Công Cha, Nghĩa Mẹ,
Ðức sanh thành: nuôi bé, dạy khôn,
Tục rằng: "Cây cội nước nguồn",
Cây xanh nhờ có nước luôn tư mùa.
Cùng bạn tác, không dua, không nịnh,
Với anh em, đừng phỉnh, đừng phờ,
Thấy người quyền quý đừng mơ,
Gặp người hoạn nạn chớ lơ lảng lòng.
Ðạo Quân-Tử, vợ chồng gây mối,
Mối cang thường, dòng dõi trổ nên,
Một lòng một dạ vững bền,
Sớm khuya dạy bảo, nhủ khuyên ngọt ngào.
Tình máu mủ đồng bào cốt nhục,
Cũng rún nhau, một cục xắn chia,
Ðừng toan chước quỉ phân lìa,
Ở cho hòa nhã, tiếng bia danh đồn.
Ðạo thần tử, lo tròn phận sự,
Nghĩa tôi con, nắm giữ thân danh,
Sao cho công toại danh thành,
Sao cho muôn thuở sử xanh tên đề.
Cân Tạo-Hóa nhiều bề mắc mỏ,
Máy Kiền-Khôn hiếm chỗ cam go,
Nước đời sâu chống, cạn dò,
Ðừng chơi biển thẳm, chớ mò lạch khơi.
Thần Tiên đã bày lời trung chánh,
Thánh Hiền còn thêm gánh nghĩa nhơn,
Thương đời, chẳng biết công ơn,
Chê bai thấp thỏi, chờn vờn cầu cao.
Muốn đặng ngọc thì vào non thẳm,
Muốn tìm vàng phải ngấm biển sâu,
Muốn cho phú quí, công hầu,
Thì tua gắng chí dãi dầu tuyết sương.
Ai cũng muốn Tây Phương lạy Phật,
Sao không lo Thánh Thất chầu Thầy,
Vì con, Thầy mới đến đây,
Cạn phân lợi hại, tỏ bày thiệt hơn.
Phải tích đức, tu nhơn làm trước,
Lo tu thân, tác phước cho cần,
Trên đầu có Thánh, có Thần,
Có Trời, có Phật cầm cân chẳng lầm.
Ðừng tưởng chỗ tối tăm chẳng thấy,
Chớ tưởng điều phải quấy không soi,
Có câu: "Khuynh phúc tài bồi", (4)
Nước sông ròng kém, máy Trời vần xây.
Vầng nhựt nguyệt đêm ngày soi xét,
Lẽ âm dương hàn nhiệt giao thông,
Có câu: "Thiên Ðịa chí công",
Họa dâm, phước thiện, mảy lông chẳng chừa. (5)
Ðừng tưởng lấy vải thưa che Thánh,
Chớ tưởng dùng sức mạnh qua Trời,
Ðáng thương mà cũng đáng cười,
Vì lòng kiêu ngạo dễ ngươi cao dày.
Lòng bất nhẫn, thêm bày ít đoạn,
Dạ từ bi, phụ giảng vài bài,
Khuyên con tạc dạ chớ sai,
Khuyên con chớ thấy dông dài bỏ qua.
Nên xa tránh dâm tà sắc dục,
Hư thân danh, điếm nhục tổ tông, (6)
Hại nầy, thiệt hại vô cùng,
Phật, Trời chẳng chút thứ dung tội nầy.
Vì kiếp trước dẫy đầy âm chất,
Sa mê dâm, phước đức tiêu mòn,
Hại mình, hại vợ, hại con,
Hại luôn sự nghiệp, hại dồn đời sau.
Chước quỉ quái, lòng sâu, dạ độc,
Kế tinh yêu, nước đục béo cò,
Lập mưu thả lưới giăng dò,
Hại người lương thiện, ấm no thân mình.
Người cậy thế khôn lanh xảo trá,
Trời dành phương nhơn quả trả vay,
Phủi tay chẳng kíp thì chầy,
Reo cười chưa thỏa, xin mày, không cơm.
Ðành búng rảy, ngày đơm tháng giỗ,
Nỡ phụ phàng, chim tổ, người tông,
Ỷ mình đủ cánh đủ lông,
Quên ơn Cha Mẹ, phủi công Ông Bà.
Tội bất hiếu, phui pha đâu có,
Chữ vô tư, tỏ rõ phải không?
Kiếm, đao, địa ngục song song,
Ðem vào trước dạy, vở lòng phanh gan.
Chủ lường gạt buôn gian bán lận,
Tớ gian tham, lời chận, lỗ thêm,
Miếng môi chuốt ngót cho êm,
Lường công tiếc việc, dao ghim đầy lòng.
Phường sâu độc, toan phòng ngọt mật,
Tánh cưu mang, nhử bắt giết ruồi,
Mưu sâu gẫm lại than ôi!
Hồi đầu báo ứng, kêu Trời muộn thay.
Ngày chí tối, phô bày nanh vút,
Sớm cùng trưa, xúi giục kiện thưa,
Xiết bao kế lận, mưu lừa,
Ôm gồm hai phía, đỏng đưa đôi đàng. (7)
Cậy quyền thế tham quan ô lại,
Giả xưng hô quí phái cao môn, (8)
Líu lo ba tấc lưỡi dòn,
Ðã thâu của báu, lại bòn đồ xưa.
Giọt thán oán như mưa thấy thảm,
Tiếng bi ai dường sấm bên tai,
Sống cho vạn ách, thiên tai,
Thác cho kíp kíp, đầu thai bồi thường.
Dối Thần Phật, gạt lường tế độ,
Phỉnh chúng sanh, tu bổ chùa chiền,
Trọng tăng kỉnh Phật thiêng liêng,
Lòng thành dâng cúng, bạc tiền sá chi.
Nghề đồng cốt, khinh khi Tiên Bụt,
Nghiệp bóng chàng đàn đột hư vô, (9)
Xác Ông, xác Cậu, xác Cô,
Dưng chay, cúng mặn, thế đồ vớt vong.
Chẳng hiểu chữ: Sắc không, không sắc,
Chẳng thông câu: Không có, có không, (10)
Giam vào vô để lao lung, (11)
Chờ ngày Phán Ðoán Ðại-Ðồng thế gian. (12)
Kẻ bợ đỡ, mua quan, bán bạn,
Tánh nịnh lùa, giả dạng cầu thân,
Cũng phường mọt nước, sâu dân,
Phú cho địa ngục trầm luân giam cầm.
Phô những lũ tìm tâm ích kỷ,
Khắp các phường tính kế hại người,
Hại người, mình lại vui cười,
Hỏa khanh địa ngục, đốt đời chẳng dung.
Răn đệ tử: chớ dùng rượu thịt,
Khuyên chúng sanh: rán ít chơi bời,
Sắc tài tửu khí hao hơi,
Gắng công tu niệm thờ Trời tụng Kinh.
Lời Thầy phán phải tin, phải tưởng,
Lời Thầy răn chớ cượng chớ sai,
Tu cho rạng tiếng Cao-Ðài,
Cha hiền, con thảo, trai ngay, gái lành.
Trối những kẻ khinh danh Ðạo cả,
Thây các phường thóa mạ khi THẦY,
Khoe khoang, kiêu ngạo, đặt bày,
Ðền xong tội thế, đến ngày gặp Ta.
Ðiều biếng nhác bởi già nghiệp chướng,
Tánh trù trì, khó hưởng thanh nhàn,
Khuyên con giữ dạ bền gan,
Lòng lo tu niệm, Thiên-Ðàng mau lên.
Mãn những ước thành Tiên, thành Thánh,
Mà quên lo tu tánh, tu thân, (13)
Tu cho bồi đắp thiện căn,
Tu cho trung, hiếu, nghĩa, nhân vẹn tuyền.
Tu là cứu Cửu-Huyền Thất-Tổ,
Tu là cần phổ độ chúng-sanh,
Cầu cho cải dữ về lành,
Cầu cho đất nước thái bình muôn năm.
Tu cho được Thần khâm, quỉ phục,
Tu cho nên thoát tục, siêu phàm,
Công danh, quyền quí, tước hàm,
Mây tan, nước chảy mà ham nổi gì?
Thế thường nói: tu chi cho nhọc,
Ðể mà lo: tước lộc công hầu,
Sao không suy trước nghiệm sau,
Tiền căn, hậu quả, bởi sao được vầy?
Phân năng bón thì cây mới tốt,
Rễ thường tươi thì đọt mới xanh,
Muốn cho cả cội sung nhành,
Tu hành lo trước, sau đành thảnh thơi. (14)
Thầy thương xót bùi ngùi kẻ dại,
Muốn thành công mà lại ngao du,
Phật mang tám nạn cũng tu,
Thầy còn muôn kiếp công phu dãi dầu.
Ai dẫu được công hầu khanh tướng,
Mà không lo tiếp dưỡng, tài bồi,
Gốc cây sùng đục đã rồi,
Không trông nứt mục, nảy chồi, đơm bông.
Tu phước đức, bền lòng cho lắm,
Tên quỉ vương hay nhắm người tu,
Mũi tên đã độc lại mau,
Ghim nhằm một mũi, khó hầu gở ra!
Tên nó sắm những là: rượu bọt,
Tên nó giồi: gái tốt, vàng ròng,
Muôn ngàn tên độc vô cùng,
Vương nhằm một mũi thì không còn hồn!
Tu thì chớ bôn-chôn nóng-nảy,
Tu thì cho phải quấy phân minh,
Chánh, tà, chơn, ngụy, được rành,
Phật Trời mới chứng cho mình rằng tu.
Tu cho được: phụ từ, tử hiếu,
Tu cho thành: huynh hữu, đệ cung,
Gái tu: tứ đức, tam tùng,
Trai tu: nhân, nghĩa, hiếu, trung, làm đầu.
Thế tưởng vậy là tu Nhơn-Ðạo,
Nào hay rằng: Thiên-Ðạo bởi đây,
Chẳng lo Nhơn-Ðạo cho dày,
Mong thành Thiên-Ðạo mặc may làm gì?
Phật đã dạy Tam qui, Ngũ giới,
Ðời chẳng tuân để hại ngươn-thần,
Bởi thương nên mới phân trần,
Vì thương nên mới ân cần nhủ khuyên.
1-       Một khuyên phải kiền thiền mộ Ðạo, (15)
2-       Hai tuân lời Tam-Giáo Thánh Nhơn, (16)
Ðạo là chí chánh, chí chơn,
Những lời Thánh-Huấn chạm xương ghi lòng.
3-    Ba khuyên nhớ tổ-tông công đức,
4-       Bốn lo tu đúng bực cang-thường,
Cha sanh, Thầy dạy kỹ cương,
Anh em bạn tác, náu nương vợ chồng.
5-       Năm khuyên nhớ kẻ nông công khó,
6-       Sáu xót thương nông phụ nhọc nhằn,
Cày sâu, cấy cạn, bón phân,
Làm nên tơ chỉ trăm phần lao đao.
7-       Bảy liên lạc đồng bào huynh đệ,
8-       Tám khuyên đừng xua mị quyền môn,
Sao cho tiếng ngợi danh đồn,
Ðáng trang đạo đức, phải tôn, phải vì.
9-       Chín khuyên chớ khinh khi cô quả,
10-       Mười khuyên tua hỷ-xã lỗi người,
Khuyên đừng biết giận hờn ai,
Xót người hoạn nạn, cứu nơi cơ hàn.
Ðược vậy mới gọi trang tu tánh,
Tánh tu rồi mới định tu tâm,
Càng tu, càng thấy cao thâm,
Càng tu, càng thấy sự lầm lạc xưa.
Biết lầm lỗi thì chừa cho gấp,
Ðặng mau lo bồi đắp cội lành,
Như vầy mới gọi tu hành,
Như vầy mới gọi chứng minh Bồ-Ðề. (17)
Khuyên con phải kiêng dè cho lắm,
Mười lời khuyên như tẩm Cam-Lồ, (18)
Ðêm ngày dầu tụng Nam-Mô,
Mà không noi giữ, nhành khô, rễ còi.
Mừng con đặng có mòi tấn phát,
Rưới cho con nước mát mùi thơm,
Bốn mùa hoa nở trái đơm, (19)
Hơi bay bát ngát, nhụy tươm ngọt ngào. (20)
KỆ VIẾT:
1-     Giáng cơ chỉ rõ máy Kiền-Khôn,
Ghi chép vài trang sách Thánh-Ngôn,
Luân-lý cang-thường nên cả cội,
Nghĩa-nhơn, trung-hiếu vốn sâu nguồn.
Thành chơn, phước bởi công vô lượng,
Ðắc Ðạo, ơn nhờ Ðức Chí-Tôn,
Khuyên nhủ các con tua gắng chí,
Tam-Kỳ muôn thuở tiếng bia đồn.
* * *
2-     Tiếng bia đồn để ức muôn năm,
Khuyên thế đừng tu độc hiểm tâm,
Thầm tối mưu gài chông lễu lễu,
Cao xanh lưới bủa dạng tăm tăm.
Vô thường chẳng sợ tay oanh liệt,
Quỉ tốt nào kiêng bực phẩm hàm,
Thiện ác đáo đầu vai có trả,
Hoàng-Thiên hữu nhãn chắc không lầm.
* * *
3-     Chắc không lầm lỗi tiếng Mười Khuyên,
Thì được tên đề bảng Ðịa-Tiên,
Muốn hưởng lâu dài nền hậu quả,
Phải lo bồi đắp cảnh tiền duyên.
Làm lành, lánh dữ câu thành ngữ,
Tốt đất sung nhành lẽ tự nhiên,
Chí dốc siêu phàm, lên cõi Thánh,
Phải lo vun tưới miếng Tâm-Ðiền.

      Các con! Thầy dạy bài "Tu-Chơn Thiệp-Quyết" nầy là chỉ đường ngay lẽ chánh cho các con đi, nẽo vạy thói tà cho các con sửa.
      Trong lúc Thầy truyền Ðạo đây, thì chư Thần Tiên ủng hộ theo Thầy, tường vân che phủ, thoại khí bao quanh. Lại có Văn-Xương Ðế-Quân ghi chép vào Kim-Thơ Ngọc-Sách hầu để vào "Toàn-Kinh Bửu-Viện".
      Ba bài kệ các con phải giữ dạ nằm lòng, ngày đêm truyền tụng chớ khá bỏ qua. Vì tụng Kinh nầy đây thì Tứ-Trị Công-Tào Sứ-Giả thảy hằng nghe mà biên chép công quả.
      Thầy dạy Bổn-Mạng Nguơn-Thần của mỗi con xét coi trong lúc rảnh rang có trau giồi Ðạo-Ðức như lời Thầy phán chăng?
      Các con hãy nghe, chớ rằng Thầy không nói trước.
      Bài "Tu-Chơn Thiệp-Quyết" có 64 vé, 256 câu, 1792 chữ, cộng với ba bài Kệ là 1960 chữ.
Lời nào Thầy đã dỉ hơi ra,
Vàng, ngọc, gìn trau chớ bỏ qua,
Cung kỉnh, ấy là nền đạo-đức,
Kiêu căng, vốn thiệt gốc yêu tà.
Ngươn-Thần chiếu mạng người trung chánh.
Nghiệp chướng trì chơn đứa xảo ngoa,
Ðừng tưởng Trời cao mà giả dối,
Mắt Thần như chớp, khó phui pha.
      Các con! như có người nào ở ngoài vòng cửa mà muốn cho rõ mùi Ðạo lý của Thầy, thì các con cũng nên xét và dạy chúng nó bài "Thiệp-Quyết" nầy.
Khuyên đời bỏ dữ, đặng theo lành,
Ấy cũng là điều giúp chúng sanh,
Tiên, tục, thấp, cao, lời giác đác,
Nên, hư, chỉ rõ tiếng đành rành.
Thiên duyên yếu mối, năng thưa thớt,
Nghiệp chướng già cây, khó rắp ranh,
Vững lái êm chèo thuyền tế độ,
Ðưa người đến bến, mựa cành nanh.
* * *

C H U N G
       (Bài "Thiệp-Quyết" nầy là bài giáng cơ tại Thánh-Thất Kiên-Giang ở Rạch-Giá, đêm 24 tháng 3 âm lịch năm Canh Ngọ, 22-4-1930).




Chú Thích:
      (1) Ðức Thượng-Ðế lâm trào ngự trên Ngai báu tại Cung Bạch-Ngọc, chịu cho các Thần, Thánh, Tiên, Phật chầu mừng xong rồi bãi chầu.
      (2) Chính mình Ngài ngồi xe loan xuống chơi nước Nam xem các môn đệ là con nhà Việt-Nam khai đàn thờ Tam Giáo thế nào.
      (3) Một vòng Vô-Cực trống không, chẳng có hình tượng Trời Ðất vật chi cả.
      (4) Khuynh-phúc là nghiêng đổ. Tài bồi là vun trồng đắp lại. Nghĩa là người làm ác thì bị tai họa và sụp đổ nghiêng ngữa, gia sản tiêu điều. Còn người làm lành nhơn đức tu hành thì được bồi bổ tinh thần và vật chất.
      (5) Họa dâm là họa tới liền liền. Phước thiện là phước dành sẵn. Nghĩa là người làm ác thì Trời cho họa tới liền liền. Còn người làm lành, tu hành đạo đức thì Trời dành sẵn ban cho sự may mắn và hạnh phúc.
      (6) Chữ điếm nhục là xấu hổ. Con người ta linh tánh hơn loài vật là biết giữ cang-thường luân-lý, vợ chồng có cặp, nhược bằng chồng chung vợ chạ (tà dâm) thì không giữ được cang-thường luân-lý và làm cho xấu hổ tổ tông ông bà và dòng họ.
      (7) Hễ việc kiện thưa thì có người nguyên đơn và kẻ bị cáo, mà đã ôm việc bên nguyên, lại gồm việc bên bị, nhiều lời đẩy đưa đôi đàng như đòn xóc hai đầu, đặng mà lợi dụng 2 đàng ăn tiền và hối lộ cả 2 bên.
      (8) Xưng ông kia là chú bác, thầy nọ là anh em, đều là người cự phú cự quí, hết lòng giúp đỡ, lo chi là thất kiện.
      (9) Nghề đồng cốt là nghề tà thuật giả dối mà lường gạt những người nhẹ tánh tin càng. Nó khi dễ Tiên Phật mà giả danh ông nầy bà nọ đặng mà gạt đời. Những bóng chàng thường nói tướng ứng nói càng những lời vô bằng cớ và láo xược mà gạt gẩm thiên hạ đặng lấy tiền.
      (10) Chữ "Sắc Không, Không Sắc": trong Tâm Kinh nói trong cõi tạm nầy phàm vật chi có sắc tướng đều là vật tạm, phải có một ngày hư nát, "Sắc tức thị không" nghĩa là vậy.
      Còn như linh hồn không thấy sắc tướng chi mà thiêng liêng đời đời bất tiêu bất diệt, "Không tức thị sắc" nghĩa là vậy.
      Câu "Không Có", nói Ðạo Tiên-Thiên vô cực, trống không, Ðấng Tạo-Hóa nhơn không mà gầy dựng có Trời Ðất muôn vật, chữ rằng: "Tùng vô như hữu". "Có Không", nói Ðạo Hậu-Thiên Thái-Cực sanh hóa muôn vật, song muôn vật hễ có hình phải có hoại, chữ rằng: "Tùng hữu như vo⦣34;.
      Chữ Sắc là thuyết Có, chữ Không là thuyết Không. Trong thế gian nầy không có gì hết mà tại mình muốn nói Có là Có, muốn nói Không là Không. Tỉ thí như còn sống có của nhiều, ruộng đất cò bay thẳng cánh là thuyết , đến chết không đem theo được là thuyết Không; vợ thì lấy chồng khác, ruộng đất người khác cày, nhà cửa người khác ở, con cái người ta xài, ấy là lời ông Trang-Tử lúc vợ chết vỗ bồn ca.
      (11) Vô để lao lung: nghĩa là "Chuông lồng không đáy", tức là địa ngục, âm khí ngưng kết thành hình ma, tượng quỉ, hoặc thú dữ, rắn độc ở vòng bốn phía, hình như chuồng lồng vậy. Những người hung dữ phần hồn trọng trược sa đọa vào đó, bị khí âm vấn vít không phương giải thoát.
      (12) Giam vào chuồng lồng đó chờ đúng kỳ phán đoán Ðại-Ðồng thế gian (tức là đến kỳ Long-Hoa Ðại-Hội) Tòa Tam-Giáo sẽ đem ra phán xét. Tội nhẹ thì còn đi đầu thai theo lục đạo luân hồi, còn tội nặng hồn sẽ bị hỏa khanh đốt thành tro bụi, muôn kiếp không trở lại làm người được.
      (13) Tu tánh tu thân: nghĩa là "Tu tánh lập mạng". Tỉ thí như tánh mình dễ phóng túng sa vào tứ-đỗ-tường, lâu ngày lụy vào một hay là nhiều cửa thì cái thân mình chịu sao nổi với những phản ảnh của nó nên phải chết yểu, thì đâu còn ngày giờ mà lập mạng nghĩa là tu hành đặng siêu thoát. Con người ai cũng phải song tu tánh mạng hầu lúc sống được khỏe mạnh thanh nhàn, lúc chết linh hồn được siêu thoát.
      (14) Kiếp trước có tu nên kiếp nầy mới được giàu sang phú quí. Vì vậy, kiếp nầy phải tu hầu kiếp sau đặng siêu thoát lên một thế giới rực rỡ tốt lành hơn thế giới nầy (quả địa-cầu thứ 68 mà chúng ta đang ở) tùy theo công quả.
      (15) Nhập môn cầu Ðạo phải có lòng cung kính, thành nhiệt, yêu mến nền Ðạo đặng tu tâm sửa tánh, ấy là người tu thiệt, lo chi chánh quả không thành.
      Như có dạ ham vui, hoặc có lòng lợi dụng mà nhập Ðạo, là người tu giả, chẳng khỏi linh hồn sa đọa.
  (16) THÍCH: Phật dạy minh tâm kiến tánh.
          ÐẠO:     Tiên dạy tu tâm luyện tánh.
          NHO:     Thánh dạy tồn tâm dưỡng tánh.
      Phải vâng lời Tam Giáo dạy rằng: Một lòng tu thiệt.
Thân sau chẳng Phật thì Tiên,
Chẳng Thần, chẳng Thánh, cũng quyền công-khanh.
      (17) Bồ: là phổ-độ.     Ðề: là cứu tế.
      Thể theo lòng Trời tánh Phật phổ cứu nhơn sanh, công quả tròn đầy sẽ đặng siêu chứng Bồ-Ðề vào cõi Niết-Bàn. Bồ-Ðề là chánh giác.
      (18) Giữ trọn 10 điều khuyên, đặng tìm Ðạo Tiên.
      Giềm lòng nước Phật, trong lặng chơn như, chẳng hề phiền não, tự nhiên trong mình mát mẻ, như tắm nước Cam-Lồ vậy.
      (19) Người tu thiệt đắc quả rồi thì trí huệ rộng lớn nở nang, nắng chẳng héo khô, mưa không rụng rớt, bốn mùa tươi tốt, như bông sen nở vậy.
      (20) Người tu thiệt thành đạo rồi, khi giảng Kinh thuyết Pháp, mùi Ðạo bát ngát, thơm tho, huệ lan không sánh mùi thơm, mai cúc đều thua hơi ngát, tợ hương sen thơm vậy.

Chánh Giáo Thánh Truyền


ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
TAM GIÁO QUI NGUYÊN NGŨ CHI HIỆP NHỨT


 CHÁNH GIÁO THÁNH TRUYỀN



TÁI BẢN VÀ ẤN TỐNG
PHÁP DANH CHƠN TỊNH

KIM THÀNH LONG


ÔNG VĂN – CHỢ GẠO – ĐỊNH TƯỜNG

Năm đạo thứ 33 mùa thu Mậu Tuất 1958










CHÁNH GIÁO THÁNH TRUYỀN
--------



TỰA CỦA ĐỨC CHÍ TÔN
    NGỌC Kinh vừa tiếp sớ đàn trung,
HOÀNG linh Thầy khen biết phục tùng
THƯỢNG giới ban hành lời chỉ dụ,
ĐẾ truyền tô điểm đạo trung dung.

----
  Từ Bàn Cổ sơ khai hỗn độn,
Khí Hư vô hiệp trọn ngôi trời,
Là ngôi Thái Cực tỏ ngời,
Lưỡng nghi sanh hóa phân rời âm dương.
Khí khinh thanh thuần dương nhẹ hỏng,
Hiệp Tiên thiên bay bổng lên trên.
Khí âm trọng trược chẳng bền
Hậu thiên vi địa nên liền lìa ngôi.
Ngôi Tiên thiên phục hồi phẩm vị,
Là ngôi Càn cao quí vô cùng,
Hậu thiên vốn thiệt quả Khôn,
Bảy hai thế giái không trung xây vần.
Thượng giái ba sáu từng vọi vọi,
Cõi Tiên thiên nhuần gội khí dương
Khí âm bẩm thọ hơi dương,
Âm Dương hiệp nhứt kiết tường Đạo sanh.
Sanh Đại Đạo là ngôi Thái Thượng.
Hóa Tam Quang là Nhựt, Nguyệt, Tinh,
Tinh tượng thế giái ba nghìn,
Về quyền Thiên Đế giữ gìn xét xem.
Miền Hạ giái lập thêm bốn bộ,
Thường gọi rằng Tứ Đại Bộ Châu,
Trung giái mấy quả Địa Cầu,
Địa Cầu sáu tám Đạo mầu phát sinh.
Long hoa hội khai minh Đại Đạo,
Là Nhứt kỳ phổ độ chúng sanh,
Nhiên Đăng Cổ Phật dạy rành,
Thái Thượng Đạo Tổ ban hành đạo cao.
Văn Tuyên Vương phụ vào giúp sức,
Đặng chấn hành nhơn lực trần gian,
Đạo khai từ thuở Tam Hoàng,
Sang qua Ngũ Đế đạo tràn khắp phương.
Truyền qua tới nhà Thương bạo ngược,
Nên Đạo Trời không được hiển dương,
Giữa đời Châu, thuở Chiêu Vương,
Đạo Quân giáng xứ Tịnh Vương độ đời.
Long Hoa hội Nhị kỳ phổ độ,
Đạo Phật vào Ấn Độ lưu hành,
Thích Ca Phật Tổ chí thành,
Từ ngôi Thái tử tách mình đi tu.
Quyết dẫn kẻ ám mù buổi tối,
Tìm Đạo mầu chẳng thối chí tâm,
Bồ đề khổ hạnh mấy năm,
Dày công tu luyện mới tầm lý sâu.
Cuộc chung đỉnh bể dâu khổ não,
Quyết dứt đường quả báo luân hồi,
Người trong tứ khổ thương ôi!
Muốn cho thoát khỏi luân hồi trần gian.
Mong dẫn đến Niết bàn Cực lạc,
Khuyên tránh đường lầm lạc gai chông,
Tam qui, ngũ giái cho ròng,
Dạy công tu niệm ngăn phòng tà tinh.
Đạo Thích vừa phát minh bành trướng,
Đạt Ma truyền qua hướng phương Đông,
Trung Huê truyền bá dày công,
Đạo tràn khắp cả Á Đông thịnh hành.
Vì bị việc âm thinh sắc tướng,
Mà Đạo mầu phải vướng gian nan,
Thiên Tào thương kẻ khốn nàn,
Thái Thượng vưng lịnh truyền ban Đạo Trời.
Rằm tháng Hai ra đời cứu thế,
Ra oai linh phổ tế sanh cầm,
Đạo cao sửa chất phàm tâm,
Tam nguơn ngũ lập, đạo thâm dạy truyền.
Tinh, Khí, Thần, Tiên Thiên chí bảo (chí bửu)
Luyện cho tròn huờn đáo cựu nguyên,
Tu chơn luyện tánh chí thiền,
Tuân y ngũ giới xa miền Hậu thiên.
Bởi người thọ chơn truyền ỷ sức,
Dụng phép mầu giành giựt lợi danh,
Khiến nên Đại Đạo tan tành,
Đạo ngưng, không đặng ban hành về sau.
Đời chiến quốc Đạo Nho trổ mặt,
Xuất Thánh nhơn dìu dắt nhơn sanh,
Trung dung Khổng Thánh chỉ rành,
Cốt làm quân tử chí thành là hơn.
Noi Đường, Ngu nghĩa nhơn Văn Võ,
Truyền lục kinh chỉ rõ nhơn luân,
Dạy khuyên xã hội nhơn quần,
Tam cang đạo trọng, ngũ thường chớ quên.
Lễ tôn ti, dưới trên phân biệt,
Nữ cùng nam, hữu biệt vẹn toàn,
Hiếu, trung, tiết, nghĩa phải toan,
Tinh thần cho trọn chớ màng lợi danh.
Vì chung đỉnh dỗ giành trước mắt,
Nên người đời không chắc lòng son,
Năm giềng ba mối không tròn,
Biển trần chìm nổi hãy còn linh đinh.
Nhà  Nam  xưa hằng gìn phong hóa,
Từ Hồng Bàng đạo hóa dân tâm,
Phật, Tiên, Thần Thánh giáng lâm,
Độ người Việt Quốc ân thâm đức dày,
Tới trào Thần, người suy vật chất,
Mất tinh thần, thánh chất tiêu mòn,
Cang thường, phong hóa không tròn,
Đời càng hỗn độn, người càng cạnh tranh,
Khắp năm châu, nhơn sanh xô đẩy,
Thêm nhiều điều vướng bẫy phồn hoa,
Vong xu nợ nước ơn nhà,
Nghĩa nhơn chẳng trọn, hằng xa luân thường.
Lòng Trời cảm xót thương trần khổ,
Lập Tam kỳ phổ độ dày công,
Đạo Trời thưởng phạt chí công,
Truyền khai Đại Đạo phổ thông khắp cùng.
Trời thương giống Lạc Hồng đồ khổ,
Ra oai linh tế độ nguyên nhân,
Độ dân khỏi bước phong trần,
Hoằng khai Đại Đạo, hưởng phần thiêng liêng.
Qui Tam Giáo thiện duyên ngộ Đạo,
Đạo Tam Kỳ toàn bảo người lành,
Hạ nguơn thương lũ quần sanh,
Tai nàn mạt kiếp Thiên đình đã ghi.
Thầy phải lập Tam Kỳ Đại Đạo,
Rước nguyên nhân huờn đáo cựu ngôi,
Tiên thiên phẩm vị phục hồi,
Tránh nơi bến tục, xa mồi vinh hoa.
Thầy đã xin cùng Tòa Tam Giáo,
Lập Ngũ Chi Đại Đạo độ đời,
Ngũ Chi do gốc Phật Trời,
Minh Sư, Minh Thiện, Minh Đường, Minh Tân.
Thêm Minh Lý lãnh phần truyền đạo,
Ban sám kinh khuyên bảo tu hành,
Sáu mươi năm trước chỉ rành,
Thiên thơ ghi chép, Thiên đình luật ban.
Minh Sư cùng Minh Đường một phái,
Lo chấn hưng chế cải đạo Thiền,
Đạo Thích đã thất kỳ truyền,
Vì chưng tăng chúng không chuyên tu trì.
Làm mất lý vô vi của Phật,
Bày hữu hình vật chất không kiêng,
Minh Sư thọ đặng chơn truyền
Rèn lòng tụng niệm, tinh chuyên đạo mầu.
Nhơn cuộc thế cơ cầu gay trở,
Nên Như Lai Phật Tổ truyền ngôn,
Truyền cho Đại Thánh Tề Thiên,
Hiệp cùng Thiết Quả giáng miền Nam Bang.
Cứu nguyên nhơn khai đàng dẫn nẻo,
Truyền Thánh ngôn luật mẹo cứu đời,
Minh Tân Thánh huấn truyền lời,
Chuyên theo Đại học chớ dời lòng son,
Bởi thấy đời vì còn vật chất,
Nên Cái Thiên Cổ Phật giáng trần,
Lập chi Minh Thiện độ dân,
Tùng theo Phật pháp tối tân Đạo mầu.
Y tam ngũ, hồi đầu phục nhứt,
Hiệp Thiên cơ, tùng luật Thiên tào
Vì chưng lắm cuộc phong trào
Mấy chi sợ khó hiệp vào một nơi.
Thầy phải sửa cơ Trời khai đạo,
Nên truyền cho Đạo Tổ giáng trần.
Lập chi Minh Lý khuyến dân,
Truyền ban kinh luật hồng ân cứu đời.
Tới năm Dần phải thời mở Đạo
Nên Tam Kỳ Đại Đạo phát minh,
Tiên thiên một gốc ba nhành,
Thích, Nho, Đại Đạo hiệp thành Đạo Cao.
Ba mối đạo gồm vào một chỗ,
Đặng dễ phương phổ độ nhơn sanh,
Tam Kỳ Đạo cả dương danh,
Là nhờ tâm chí nhiệt thành nguyên nhân.
Khuyên sớm lo tu chuyên qui tắc,
Nên sửa mình dìu dắt thiện chơn,
Lời Thầy khuyên chớ lạt lờn,
Noi gương quân tử nghĩa nhơn vẹn toàn,
Tu nhơn đạo, phải toan cho trọn,
Giữ lòng lành, lỗi mọn chớ làm,
Sá chi quyền quí tước hàm,
Trăng tà, ác xế, mà ham làm gì.
Đạo trung dung thường ghi chạm dạ,
Đạo trung hòa chẳng khá bỏ qua,
Trung là chớ tưởng cao xa,
Cũng đừng bất cập, tính xa tính gần.
Giữ ngay thẳng, bình phân mới đáng,
Trung vốn là gốc lớn đạo người,
Hòa là đạo cả trên đời,
Dĩ hòa vi quí, ghi lòng Thầy răn.
Bực quân tử phải năng tập luyện,
Tư cách tròn, để tiếng muôn đời,
Nhan-Uyên tâm chí phơi phơi,
Đai cơm bầu nước, chẳng rời trung dung.
Quân tử tùng ngũ luân vi bổn,
Trượng phu do hiếu nghĩa vi tiên,
Ngũ luân vốn thiệt năm giềng,
Vua tôi, chồng vợ, cha con, ba hằng.
Thêm anh em, bạn lang, hai mối,
Trọn năm giềng gồm cội nhơn luân,
Vua tôi, đạo trọng muôn phần,
Làm tôi đạt chữ trung thần dương danh.
Lòng từ ái, xót thương lê thứ,
Cũng đồng bào, nắm giữ mối giềng,
Làm con dĩ hiếu vi tiên,
Phụ từ, tử hiếu, nhà yên phước toàn.
Tình chồng vợ, giàu sang chung hưởng,
Lúc nghèo nàn, chớ tưởng bạc đen,
Ham trăng vội bỏ ánh đèn,
Thiệt lòng bội nghĩa tiếng hèn về sau.
Lòng tiết liệt, chớ xao lãng dạ,
Khắn trung trinh, toàn giá hạnh mình,
Anh em cốt nhục chi tình,
Thượng hòa hạ mục, gia đình yên vui.
Chớ vì lợi, phanh phui gan ruột,
Chớ vì danh, biến cuộc gia đình,
Bạn bè giao kết chí tình,
Giữ sao tròn nghĩa trung bình mới ngoan.
Đừng ấm lạnh nghèo sang chia rẽ,
Tín nghĩa tròn, nặng nhẹ chớ sờn,
Ngũ luân gốc đạo Thánh nhơn,
Khuyên con chớ khá lạt lờn phui pha.
Đạo Nho vốn đạo nhà khi trước,
Kính tổ tiên mới được ơn lành,
Trung dung khuyên dạy đành rành,
Muốn nên quân tử chí thành kiên gan.
Phải bền chí, lo toan sửa nết,
Hạnh nhu hòa trước hết răn lòng,
Tồn tâm dưỡng tánh đặng công,
Lành ưa, dữ lánh mới mong nên người.
Thường xét mình sớm trưa cùng tối,
Biết lỗi thì tự hối ăn năn,
Trí nhơn dõng, mới gọi rằng,
Là người quân tử đạo hằng tinh anh.
Trí là chẳng cần danh lợi hão,
Tùng gương Trời giữ đạo thẳng ngay,
Đợi thời gặp hội rồng mây,
Đức tài chừng ấy phô bày tranh công.
Công danh ráng trả xong nợ thế,
Tế độ người qua bể trầm luân,
Nhơn là biết nghĩa, hiệp quần,
Thương người đồng loại gian truân khốn nàn.
Vớt đồng bào lầm than khổ não,
Lòng chí thành khuyến đạo độ đời,
Dõng là mật trải gan phơi,
Vẹn toàn nghĩa vụ, chẳng rời chí tâm.
Đủ nghị lực không lầm đường vạy,
Chí hộc hồng, phi ngãi chẳng tùng,
Kiên cường, khắn chí anh hùng,
Trải tâm tuấn kiệt, thỉ chung vẹn toàn.
Không vì kẻ giàu sang khuất phục,
Chẳng vì người nghèo cực mà khi,
Sợ câu kiến nghĩa bất vi,
Xử kỷ tiếp vật, thường ghi vào lòng.
Hằng chuyên lo thuần phong mỹ tục,
Đạo hạnh tròn, thẳng mực cang thường,
Thầy thương sanh chúng lạc đường,
Nên dìu dẫn lối, vẹt đường gai chông.
Chỉ rành đạo trung dung quân tử,
Đặng các con cư xử độ đời,
Trước sau chớ khá đổi dời,
Trau giồi tánh chất, nhớ lời Thầy khuyên.
Đời, Đạo ráng vẹn tuyền hai mối,
Tháng ngày lo tu khối tinh thần,
Mới mong thoát khỏi bể trần,
Đạo thành, có thuở hưởng phần thanh cao.
Hiệp Tam Giáo gồm vào một mối,
Khuyên chúng sanh sám hối tu hành,
Thầy vì thương lũ quần sanh,
Hoằng khai Đại Đạo ba nhành qui nguyên.
Cho Tam Trấn thay quyền Tam Giáo,
Phật Quan Âm, Thích Đạo thế quyền,
Thái Bạch thay mặt Đạo Tiên.
Tam kỳ phổ độ lãnh quyền Giáo Tông.
Đạo Nho, giao Quan Công Đại Đế,
Ra oai linh phổ tế nhơn sanh,
Thánh truyền Thầy đã chỉ rành,
Vì sao Tam Trấn quyền hành Tam Tông.
Phật Quan Âm có lòng cầu khẩn,
Bố từ bi độ tận chúng sanh,
Tấm gương từ ái rỡ ràng,
Đặng quyền sửa trị đạo Thoàn khai môn.
Độ sanh chúng dập dồn nghiệt quả,
Cứu nguyên nhân kiếp đọa thoát vòng,
Thái Bạch lãnh chức Giáo Tông,
Thế quyền của đấng Chí Tôn răn đời.
Đặng thọ lịnh oai Trời sửa trị,
Vì có công xét kỹ dữ lành,
Linh Tiêu rực rỡ oai danh,
Giáng trần thay thế quyền hành Đạo Tiên.
Quan Thánh Đế cầm quyền Đạo Thánh,
Vì khi xưa lòng chánh dạ ngay,
Trung dung ghi nhớ hằng ngày,
Luận ngữ, Mạnh tử, không phai tấc lòng.
Minh Thánh Kinh, dày công khuyến thế,
Dạy đạo người: hiếu, đễ, tín, trung,
Độ đời công đức muôn trùng,
Nêu gương soi đạo trung dung sửa đời.
Đời hỗn độn đổi dời xảo trá,
Trời Phật toan cải hóa nhơn tâm,
Thánh Tiên tuân lịnh giáng lâm,
Độ người căn cội lỗi lầm xưa nay.
Mau hồi tỉnh mau quày trở bước
Lo tu thân tác phước cho cần,
Đại học dạy mối tu thân,
Khuyên con bền chí, siêng cần tinh chuyên.
Đứng Trượng phu ba giềng cho trọn,
Khá răn lòng, lỗi mọn chớ làm,
Giữ sao cho đặng chánh tâm,
Tập thành ý tốt, khỏi lâm bảy tình.
Muốn trí tri, phải rành vật chất,
Cách vật rành, hiểu luật tu thân,
Mới mong độ dẫn khách trần,
Mới mong tích đức tu nhân vẹn toàn.
Thành nhơn mới rỡ ràng gia đạo,
Mới có phương bổ báo ơn dày,
Mới mong tranh đức đua tài,
Độ người khỏi chốn trần ai khốn nàn.
Muốn minh đức tân dân phải ráng,
Ráng làm sao cho rạng danh hiền,
Gắng công chí thiện vẹn tuyền,
Có văn, có chất, phỉ nguyền nam nhi.
Tu nhân đạo phải suy xét kỹ,
Phải tùng theo chơn lý độ đời,
Gắng công tùng lịnh Phật Trời,
Thành công đắc quả, thảnh thơi linh hồn.
Khuyên các con tâm tồn nhẫn nại,
Ráng chuyên cần nhơn ngãi cho tròn,
Đảo điên, tạc một lòng son,
Cạn lời nhắn nhủ, khuyên con ghi lòng.
Ráng bền chí tới Long Hoa hội,
Mở trường thi phước tội cân phân,
Đức cao mới đặng hưởng phần,
Kiên tâm bĩ ngạn dò lần bước qua.
Lời Thánh huấn thiết tha ráng nhớ,
Nhớ tính xong mối nợ trần ai,
Thương ôi bể khổ lạc loài!
Ngày Tiên tháng Phật rộng dài bớ con!