NGƯỜI PHỤ NỮ CAO ĐÀI
(Bài thuyết đạo của cố Giáo sư Ngọc Dinh
Thanh)
Nói đến phụ nữ là một vấn đề
quan trọng, vì phụ nữ chiếm hơn nửa nhân số và giữ một vị trí trọng yếu trong
gia đình và ngoài xã hội. Có nhiều vấn đề được đặt ra: Phụ nữ với hôn nhân, phụ
nữ với gia đình, phụ nữ với xã hội, phụ nữ với chức nghiệp, phụ nữ với khoa
học, giáo dục, tôn giáo… Chung qui đều tập chú vào nhiệm vụ, bổn phận của người
phụ nữ. Trong lãnh vực tôn giáo, ngoài những nhiệm vụ, bổn phận thông thường,
người phụ nữ Cao Đài còn có những nghĩa vụ thiêng liêng và phải có ý thức sâu
sắc với thiên chức làm con, làm vợ, làm mẹ… của người phụ nữ.
Để chị em dễ phần lãnh hội,
chúng tôi xin phân ra những tiết mục sẽ đề cập đến như sau:
1. NGƯỜI
PHỤ NỮ CAO ĐÀI
VỚI
TÔN GIÁO
Để chị em nhận định rõ ràng sứ
mạng trọng đại mà người phụ nữ Cao Đài phải chung lòng hợp sức để xây dựng Đạo
đời, chúng tôi xin trích dẫn đoạn Thánh huấn của Đức Vô Cực Từ Tôn giáng dạy
tại Trung Hưng Bửu Tòa, ngày 15/8/ĐĐ 39 (1964) như sau:
“Hỡi các con nữ phái! Giờ nầy Mẹ đến trần
gian với các con trong cảnh mưa thu ảm đạm, gió thu thê lương. Mẹ cảm thấu hằng
triệu trái tim của các con khắp các Thánh thất, Thánh đường đang rộn rịp dâng
lên đón chờ tin Mẹ. Mẹ chứng kiến lòng con những nỗi hãi hùng kinh sợ, những
buồn tủi lo âu bởi đời chiến tranh, đạo tương tranh, thảm cảnh cốt nhục tương
tàn, đồng bào tương khuynh mà các con là nạn nhân của bối cảnh. Ôi! Lịch sử
nhân loại không bao giờ viết xuôi thuận một dòng như lòng con tưởng, thẳng tắp
một đường như ý con mơ, mà chính cái lẽ tán, tụ, cùng, thông, thăng trầm, bĩ
thái là lẽ dĩ nhiên! Bởi nghiệp quả số kiếp duyên phận của con người!.
Hỡi các con nữ phái! Ngày
nay các con phải tự thấy sứ mạng càng quan trọng hơn, phải lấy tình thương yêu,
đức nhu thuận để san bằng mọi mâu thuẫn, hòa đồng mọi dị biệt, hàn gắn mọi đổ
vỡ. Các con là sinh lực của bác ái của hoà bình, của gia đình cũng như xã hội.
Các con phải hăng hái tiến lên, đừng rụt rè e ngại. Các con dù ở đâu: Ở nhà, ở
xã đạo, ở Thánh thất, ở Hội Thánh, các con là tín đồ, là chức sắc, là chức
việc, là nữ tu sĩ, giáo sĩ cũng đều có thể làm tròn bổn phận người phụ nữ trong
sứ mạng Trung Hưng.
Hỡi Nữ phái!
Con ơi ghi nhớ!
Nhớ Mẹ hằng
nâng đỡ cho con.
…Dẫu bao nhiêu
cảnh thăng trầm,
Mối giềng đạo đức vững cầm đừng sai”.
Trên đây, Đức Mẹ Từ Tôn đã
kêu gọi toàn thể Nữ phái phải ý thức được trọng trách của mình dù bất cứ ở đâu,
hoàn cảnh nào, lãnh vực nào cũng phải lấy tình thương yêu, đức nhu thuận làm
nền tảng xây dựng hạnh phúc gia đình, cải hoá xã hội. Hãy mạnh dạn, hăng hái,
vui vẻ làm việc ích lợi cho mình, cho người. Muốn thực hiện được những hoài bão
ấy phải:
- Củng cố đức tin.
-
Kiên định lập trường.
-
Siêng năng học tập: Học ở sách vở, học ở người, ở xã hội, trong cuộc sống hàng
ngày. . .
- Phải tự lấp những hố chia rẽ, tư riêng trong lòng.
Những điều căn bản nêu trên để
tự đào tạo và rèn luyện cho mỗi chị em trở nên người tín đồ Cao Đài chân chính,
thì trước hết, chị em chúng ta phải có một đức tin vững chắc.
Trước tiên là phải biết tin thờ
Thượng Đế.
Tại sao phải biết tin thờ
Thượng Đế? Thánh giáo đã dạy: “Đức Chí Tôn là Đấng tạo thành càn khôn vạn
loại, sự sống bởi Ngài, vạn vật do đó mà còn, do đó mà có, do đó mà nên. Vì
vậy, Ngài là Cha yêu thương của vạn vật, nên ta phải hiếu kính Ngài để hướng về
lẽ sống hằng còn. Ngài đã dựng nên trời đất, nắm cơ mầu nhiệm nơi tay, đủ quyền
năng thống trị trong muôn loài, điều hoà vũ trụ vững an, thì Ngài là Chúa tể
càn khôn, ta phải trọng kính Ngài để gội ơn Thánh đức, hướng về lẽ phải là cơ
mầu nhiệm”.
Thứ
đến là phải giữ giới qui tinh tiến.
Tại
sao phải giữ giới qui? Qui giới đối với người tu hành như đường rầy đối với xe
lửa. Giữ giới qui là không rót thêm dầu vào ngọn đèn dục vọng, ngăn chận tánh
tham, sân, si, là bộ thiết giáp mà Đức Chí Tôn đã ban cho môn đồ của Ngài. Thầy
đã dạy:
“Thầy chẳng vì ghét mà không
lời khuyến dụ; cũng chẳng vì thương mà không sai quỉ dỗ dành. Thầy nói trước
cho các con biết mà giữ mình, chung quanh các con, dầu xa, dầu gần, Thầy đã thả
một lũ hổ lang ở lộn với các con. Thầy hằng xúi chúng nó thừa dịp mà cắn xé các
con, song trước Thầy đã cho các con mặc một bộ thiết giáp; chúng nó chẳng hề
thấy đặng là đạo đức của các con.
Ấy vậy ráng gìn giữ bộ thiết giáp ấy hoài cho tới ngày các
con hội hiệp cùng Thầy. (TNHT, 13 Mars 1926).
Người tu hành nhờ giới qui để chế ước vọng tâm, trau giồi chơn
tánh, bồi dưỡng thiện lương, un đúc một con người thuần thành đạo đức, thì khỏi
bị đắm chìm trong bể trầm luân, muôn ngàn phiền não, biết bao giờ giải thoát
tâm linh.
Và tại sao phải tinh tiến?
Đức Phật dạy: “Ta hãy tinh tiến nỗ lực thêm lên để đạt mục đích cao thượng
nào mà ta chưa đạt được, để làm chủ các pháp nào mà ta chưa có, để thực hành
các đức tính nào mà ta chưa thành tựu. Siêng năng, tinh tiến thì không việc gì
khó. Giọt nước thường chảy có thể xuyên thủng đá”.
Tinh tiến là một tiềm năng
linh động, quyết hướng cầu đến chỗ tinh thuần, hiểu biết thành tựu và giải
thoát. Tinh tiến là đem tâm trong sáng tự tại hướng tiến mọi công việc dựa trên
sự thật để đạt đến chỗ chân thật. Hạnh tinh tiến rất cần cho đời sống con
người, nhất là người tu hành. Tất cả những lỗi lầm, những việc không hay, những
nết xấu, cần phải tinh tiến giữ gìn đừng cho nó sinh khởi. Tất cả những điều
hay, những tính hạnh tốt, những công việc ích lợi cho mình, cho người, cần phải
tinh tiến làm cho nó phát sinh.
Việc cuối cùng và cần thiết
là phải thường xuyên cúng nước quì hương, công phu tịnh định. Đức Quan Âm Bồ Tát đã dạy về vấn đề nầy như
sau:
“Cúng lạy để
nghỉ ngơi tâm trí,
Để tịnh lòng,
tịnh ý, tịnh ngôn;
Khép mình dưới
bệ Chí Tôn,
Trau giồi tính nết, luyện hồn tịnh thanh.
Cúng lạy để
tâm lành phát hiện,
Nhìn Phật Tiên
trên điện hiền hoà;
Khởi lòng bác
ái vị tha,
Nhìn chung
Thượng Đế là Cha linh hồn”.
Diệu dụng của việc cúng nước
quì hương là để tắm gội tâm hồn, trí não thảnh thơi, để lòng mình được thanh
tịnh, ý mình được thanh tịnh, lời nói mình được thanh tịnh. Được vậy, tâm lành
phát hiện, trí tuệ khai minh, mới nhận định được con người với vũ trụ đồng một
thể. Thượng Đế luôn luôn giá ngự trong con người. Để hiệp cùng Trời, chúng ta
phải tu hành tinh tiến.
Đức Mẹ Từ Tôn đã ân cần nhắc
nhở:
“Thành đạo do
con trọn chí thành,
Ngăn ngừa tư
dục ở tâm sanh;
Bụi trần chớ
để mờ chơn tánh,
Ngôi vị Tiên
cung Mẹ sẵn dành”.
Cái tâm con người chứa đựng
thiện ác, Phật ma. Chỉ có công phu tịnh định là pháp môn, chế ngự được quỷ ma,
tam bành, lục tặc sẵn có trong lòng người, chờ có nhân duyên phát khởi. Công
phu tịnh định là giọt nước ma ha dập tắt lửa phiền muộn, sân hận bùng cháy
trong lòng người. Tâm con người như nước trong hồ ao. Nước thanh tịnh không
khuấy động thì bùn nhơ lắng chìm dưới đáy, nếu khuấy động thì bùn nhơ nổi lên
quỉ ma, đê tiện, xấu xa, hèn mọn trong lòng người cũng hiển hiện đầy dẫy. Cho
nên, Đức Mẹ đã ân cần khuyến dụ con cái của Ngài:
“Muốn về cung Diêu với Đức
Mẹ, thì phải lo giữ gìn khắc chế cái tâm, đừng để tư dục dấy loàn, bụi trần làm
lu mờ chơn tánh”.
Thế nên, diệu dụng của công phu
tịnh định là để lau chùi gương tâm luôn luôn sáng láng, tạo một nếp sống tâm
linh lành mạnh, diệt trừ phiền não, khổ đau, phát huy thiên tính thiện lương,
phẩm giá siêu việt của con người nhân thế. Cho nên, người
tu hành không thực hiện pháp môn công phu tịnh định là “hàm súc nội tâm” để
cho được “lòng trống bụng đặc” thì không lấy gì mà tinh tiến, chỉ lẩn
quẩn loanh quanh công việc ăn chay cúng lạy thường tình mà thôi, thì thật là
đáng tiếc, đáng buồn!
Muốn ngừng bớt đau khổ, chúng
ta hãy gò cương dục vọng lại, nhận chân giá trị, địa vị và hoàn cảnh mình trong
phạm vi tự do. Chúng ta hãy công phu tịnh định để xét lại những việc chúng ta
đã làm hằng ngày xem phải hay trái. Trái thì cương quyết sửa đổi, phải thì cố
gắng làm theo. Cứ làm như thế, làm mãi, cho tâm trí không bị tán loạn; không
theo đà dục vọng, tự nhiên chúng ta thấy bớt đau khổ, tâm trí thanh thản, đời
sống an vui, tinh thần khoan khoái, siêng năng làm việc và nhiệt thành yêu
người yêu đời. Tự mình làm chủ đuợc tâm mình. Dù sống trong cuộc đời huyên náo,
giựt giành, bon chen lợi lộc, song cũng không hệ lụy với đời! Được vậy, người
tu hành phải thực hiện công phu tịnh định để nuôi dưỡng thần lực, chánh khí đầy
đủ trong tâm, là phương cách làm cho lòng trống (không tham, sân, si, không dục
vọng, phiền não và nuôi dưỡng đạo đức trong lòng), bụng đặc rồi thì tà vọng
không khởi sanh được. Ngài Bảo Pháp Thanh Long đã từng dạy:
“Lấy công quả
đền bù nợ trước,
Dụng công phu
chế ước lòng tà”.
2. NGƯỜI
PHỤ NỮ CAO ĐÀI
VỚI
BẢN THÂN
+ VỀ PHẦN VẬT CHẤT, người phụ nữ cần phải có một thân thể khỏe mạnh. Chúng ta không ai là không có thân thể, nên
phải biết cách giữ gìn và làm phát triển, tất nhiên chúng ta sẽ thấy “một
tinh thần minh mẫn trong một thân thể tráng kiện”. Muốn có một thân thể khoẻ mạnh, chúng ta phải thực
hành những phương pháp cần thiết sau đây:
* Cần phải vận động: Sự vận động rất cần cho cơ thể, cũng ngang với sự ăn uống, ngủ
nghỉ. Có vận động, máu chạy mới đều, gân cốt mới mạnh, tinh thần mới khỏi mỏi
mệt và tâm chí mới được bình tỉnh.
* Cần ăn uống điều
độ hợp vệ sinh: Ăn để sống chứ không phải sống để ăn. Đó là câu
nguời ta thường nói để nhắc nhở những ai ăn uống quá độ. Cơ thể chúng ta gồm vô
số tế bào và không giây phút nào là không biến đổi. Lớp nầy sinh ra thì lớp kia
hủy hoại. Vì vậy, chúng ta cần phải ăn uống có điều độ và hợp vệ sinh để cơ thể
luôn được bồi bổ.
* Cần ngủ nghỉ điều
hòa: Ngủ nghỉ là một liều
thuốc an định, bổ dưỡng thân tâm sau khi làm việc mỏi mệt. Sau một ngày vận
động vì làm việc, ta cần phải ngủ nghỉ có điều độ để lấy lại sức khoẻ.
* Cần phải sạch sẽ thân thể: Vấn đề tắm giặt sạch sẽ và nhà cửa bếp núc
sạch sẽ cũng rất quan trọng như vấn đề vận động và ngủ nghỉ, hô hấp… Thân thể
bẩn do tiếp xúc với bên ngoài, đôi khi gây bệnh tật. Hô hấp là việc rất cần nên
môi trường sống phải sạch sẽ, thoáng mát. Người xưa nói “nhà sạch thì mát, bát sạch thì ngon” là thế!
Ngoài phần thân thể khoẻ mạnh, người phụ nữ
cần phải có ngăn nắp thứ tự.
Bước vào nhà của ai, nhìn thấy sự bày biện, xếp đặt, chúng ta cũng có thể phán
đoán sơ khởi là những người trong nhà ra sao rồi. Vậy thì ngăn nắp, thứ tự là
một đức tính tốt của người có nếp sống văn minh. Sự ngăn nắp, trật tự trong gia
đình giúp ta khỏi mất công tìm khi cần dùng đến và giúp ta dễ kiểm soát.
Chị em chúng ta cần canh tân
nếp sống, mà gia đình là nền tảng của quốc gia xã hội. Chúng ta hãy cố gắng sắp
xếp gia đình cho sạch sẽ và ngăn nắp. Điều đó rất có ảnh hưởng đến tâm trí
chúng ta, nhất là người phụ nữ trong gia đình. Trách nhiệm của chị em thật vô
cùng to lớn.
+ VỀ PHẦN TINH THẦN thì người phụ nữ cần phải học hỏi, phải có tâm
hồn cao thượng, phải luôn vui vẻ dịu dàng và phải đoan trang thật thà đức hạnh.
Trong“Nữ phái giáo huấn” có câu:
“Trau đức dục,
học đòi giáo dục,
Lo tinh thần
rèn đúc văn chương;
Đức tài là sắc
là hương,
Là câu cẩm tú
là chương ngọc vàng”.
Xem thế, sự học hỏi là điều
quan hệ của đời người. Bao nhiêu cảnh đau buồn lo lắng của con người lây cho cả
xã hội loài người phần lớn đều do sự thiếu học hỏi. Mọi người cần phải học, học
ở nhà trường và trong đời sống. Thời gian không đợi chúng ta đâu!
“Trắng răng bao
thuở da mồi,
Hoa râm mái tóc
thôi rồi tuổi xuân!”.
Bây giờ chị em không còn là
thời cắp sách đến trường nữa, nên phải tự học hỏi bằng cách đọc sách báo, kinh
kệ, học bằng việc làm, bằng kinh nghiệm cuộc đời… Chúng ta phải gánh vác việc xã
hội, Giáo hội. Vì xã hội là một trường học to lớn, trong đó có đủ thứ để học
hỏi. Suốt đời chúng ta vẫn học và phải biết học tất cả.
Thấy người hay ta phải học
cho bằng, thấy người dở ta phải rút kinh nghiệm. Nghĩa là không cứ điều hay
điều dở, việc phải việc trái, chúng ta đều phải học hỏi. Học hỏi để tiến tới,
để sửa chữa – tức là tu hành vậy!
Tiếp theo là phải có tâm hồn
cao thượng. Tất cả nết tốt của
người phụ nữ đều thể hiện trên lời nói, cử chỉ, tính tình, việc làm và cách xử
sự hàng ngày. Không phải ngẫu nhiên, mà chúng ta phải có một nề nếp giáo dục
chính đáng, một khuôn phép vững vàng, đào tạo cho con người có một tâm hồn cao
thượng. Đó là người không cố chấp, hẹp hòi, biết khoan dung tha thứ, biết
thương người, làm việc nghĩa, biết hy sinh nhẫn nhục, không chỉ nghĩ đến quyền
lợi của mình, luôn biểu hiện một tâm hồn cao thượng. Cho nên, người phụ nữ Cao
Đài phải luôn luôn phát huy năng khiếu và thiện lương sẵn có, phải ý thức giá
trị làm người, địa vị cao quí của mình.
Cần phải luôn luôn vun tưới
cây đạo đức được sâu rễ chặt gốc trong tâm hồn mình, thì dù ở đâu, bất cứ
trường hợp nào, ánh sáng đạo đức vẫn rực rỡ như ngọn hải đăng, vừa giúp cho
mình nên người, vừa đưa đường dẫn lối cho người khác. Đức Quan Thế Âm đã từng
dạy Nữ phái như sau:
“Ai Thánh nữ
mấy ngàn năm trước,
Ai Tiên nương
mấy lượt năm qua;
Cũng trong cái
lớp đàn bà,
Tu thân hành đạo, thoát xa luân hồi”.
Đàn tại Thánh tịnh Thanh
Quang năm ĐĐ14, Đức Vân Hương Thánh Mẫu đã từng cổ vũ: “Biết đâu gái cũng
như trai” và: “Công dung ngôn
hạnh đáng trang nữ hiền”.
Thêm nữa là phải vui vẻ dịu dàng: Đứng trước
đóa hoa vừa có sắc vừa có hương, ai lại không trìu mến, trân trọng? Người phụ
nữ kiều diễm, vui tươi dịu dàng thì ai mà không yêu không quí?
Hoa thơm bởi
tại mùi hương,
Người xinh bởi tại lắm đường nết na.
Nết na quí trọng nhất và gây
nhiều cảm tình nhất. Người phụ nữ luôn vui tươi như đóa hoa, như ánh trăng rằm,
nói năng, đi đứng, nằm ngồi dịu dàng thùy mị, làm cho mọi người cảm mến và còn
tránh được những trận gây gổ ở gia đình hoặc chòm xóm. Vì “cái
tay giận dỗi không đánh nổi cái mặt tươi cười” chị em ạ! Hơn nữa, gương
mặt vui vẻ tươi cười, hiền hậu sẽ động viên khích lệ, an ủi đối với
chồng con khi âu sầu tuyệt vọng.
- Điều cuối cùng, là phải đoan
trang, thật thà. Đoan trang,
thật thà, đức hạnh là phẩm giá quí nhất của người phụ nữ. Thực hành được bốn
đức tính: vui vẻ, dịu dàng, đoan trang, ngay thẳng tức là đã xây dựng được một
phong hóa tốt đẹp, đem lại lợi lạc cho cá nhân và tập thể. Làm vậy tức là đã
gieo truyền mầm mống đạo đức căn bản, căn cơ cấu tạo nên những măng non ưu tú
mà người mẹ là bà giáo gương mẫu hiền hoà trong trường học gia đình.
“Nữ phái giáo huấn” cũng đã dạy khuyên phụ nữ Cao Đài phải tập
luyện, dồi mài những đức tính ấy:
“Ở mềm mỏng là
ngoan là khéo,
Tiếng nói năng
yểu điệu nhu hoà.
… Nhụy hoa chớ
để hững hờ
Khó ngăn lũ bướm, khôn ngừa đàn ong”.
3.NGƯỜI
PHỤ NỮ CAO ĐÀI
VỚI GIA ĐÌNH
Gia đình là nền tảng của quốc
gia xã hội. Xã hội có an bình, quốc gia có thạnh trị là bởi tất cả các gia đình
đều biết sống theo đạo nghĩa, mà thực hành đạo nghĩa là do con người. Vậy người
phụ nữ đối với gia đình có ba nghĩa vụ chính yếu: nghĩa vụ làm con, nghĩa vụ
làm vợ và nghĩa vụ làm mẹ.
+ Trước hết là nói đến nghĩa vụ làm con. Con người đã có thân tất phải có cha mẹ,
dĩ nhiên người làm con phải biết báo đáp công ơn của cha mẹ. Đạo Hiếu đứng đầu trong đạo làm người. Vì sao phải báo hiếu? Bởi vì cha mẹ đối
với con công đức sâu nặng cao dày. Công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ như
núi non sông biển: “Công cha như núi Thái Sơn… Cho tròn chữ Hiếu mới là đạo
con”.
Chúng ta làm con luôn luôn
phải nghĩ tới và tìm phương báo đáp công ơn bậc sinh thành bằng cả tinh thần
lẫn vật chất, trong lúc cha mẹ sống cũng như khi chết.
+ Tiếp theo là nghĩa vụ làm vợ. Người vợ là người chủ sự chốn gia đình.
Người vợ là người đem nguồn sống nhân tài đượm nhuần khắp cõi lòng và thân thể
con cái, là giọt nước cam lồ để an ủi những nỗi lo lắng cho chồng, là tấm gương
khích lệ chí khí cho chồng. Ảnh hưởng giá trị của người vợ đối với gia đình, xã
hội, không phải thấp kém mà ngược lại còn cao hơn. Bởi trên cõi đời nầy, nếu
không có người đàn bà thì thiếu vui, kém đẹp. Người đàn bà đứng đắn, đảm đang là nguồn nước trong lành tưới
mát cho những ai đã lặn lội trên đường đầy gió bụi. Người vợ hiểu biết và thực hiện được nghĩa
vụ của mình là đã tạo một thiên đàng hạnh phúc tại thế gian nầy với những việc
hết sức bình thường hằng ngày như việc đối xử thương yêu chồng con, thuận hòa
vui vẻ, quán xuyến việc nhà, sắp xếp gọn gàng ngay ngắn, ôn hoà nhã nhặn với
mọi người… Người vợ như một nhà ngoại giao, luôn luôn ôn tồn, dịu dàng, hòa
nhã, lễ độ… Một công việc gì được kết quả, một gia đình nào được êm ấm đều là
công phu của sự hiểu biết, cố gắng và nhường nhịn lẫn nhau. Ca dao VN từng có
câu:
“Chồng giận thì
vợ bớt lời,
Cơm sôi bớt lửa
có đời nào khê!”.
Người chồng đôi khi có những
ham mê không chính đáng thì người vợ cũng nên dùng những lời lẽ ôn tồn khôn
khéo mà sửa đổi, không nên vì thế mà gây gổ giận hờn, đi đến chỗ đánh đập nhau
gây tai tiếng xấu hổ. Sự giao tế giữa người chồng và người vợ cần phải tế nhị,
lịch sự, phải hiểu biết và nhường nhịn lẫn nhau, để luôn giữ hòa khí, đem lại
hạnh phúc và vinh dự cho gia đình, gia tộc.
Bí quyết xây dựng gia đình
hạnh phúc mà không thể thiếu được ở người vợ là phải biết giữ gìn nhan sắc,
trang phục hẳn hòi, kín đáo, đẹp đẽ. Trong “Nữ phái giáo huấn” cũng đã chỉ vẽ cặn kẽ nghĩa vụ làm vợ như
sau:
“Nên duyên phận
càng thêm ý vị,
Khi có chồng
trọn thỉ trọn chung;
Chồng nghĩa sĩ,
vợ trinh trung,
Chồng là đoan
chính, vợ tùng nghĩa phu.
Lo gìn giữ
trước sau nội trợ,
Đạo tề gia nâng
đỡ cho chồng;
Kìa chồng nặng
gánh non sông,
Vợ lo chăm sóc
những công việc nhà.
Dầu nghèo khổ
cũng là chịu cực,
Dầu gian nguy
tùng nhứt nhi chung.
Có chồng trọn
tiết với chồng,
Dù cay đắng lắm
cũng lòng không hai.
Chồng trông cậy
một tay kim chỉ,
Giúp cho chồng
danh vị thăng cao.
Chồng nên một
đấng anh hào,
Thì ta cũng đã
góp vào thành công”.
+ Cuối cùng là nghĩa vụ làm mẹ. Cha mẹ, con cái là một mối dây hòa đồng tông gia tộc, nên
cha mẹ, nhất là người mẹ có một nguồn thông cảm rạt rào không bờ bến trước sự
trưởng thành của con cái. Dù phải nhẫn nhục trước bao sự vất vả, khổ sở, ô uế,
hay khinh bỉ trong khi thơ ấu cũng như trong lúc trưởng thành, cha mẹ cũng chỉ
biết dốc hết cả vào nơi con cái một lòng thương yêu chân thật và một cố gắng lo
toan xây dựng.
Người mẹ lại đóng một vai trò quan trọng hơn hết trong công việc
nuôi nấng và giáo dục con cái. Vậy người làm mẹ phải ý thức được những trách
nhiệm thiêng liêng đó. Nghĩa là trước hết người mẹ phải làm gương tốt cho con
cái. Con cái sẽ tốt hay xấu, hư
hay nên, lành hay dữ phần lớn là do sự giáo dục, cảm hóa của người mẹ. Nên làm người mẹ phải luôn luôn gương mẫu,
như không nói dối với con, không tham lam, không chửi thề, văng tục, không
nguyền rủa người khác, không giận dữ la ó om sòm với mọi người, không đánh đập
tàn bạo với con cái, không răn phạt quá mức hay không công bình, không nghiêm
khắc thái quá, cũng không nuông chìu vô lý, không cho ăn uống quá độ, tham ăn
và hay ăn lặt vặt suốt ngày. Luôn luôn hướng dẫn con cái có chí tự lập, tự chủ,
không ỷ lại, không lười biếng, không rụt rè, nên bạo dạn và nên hoạt động. Tập
tánh vui vẻ và rộng lượng, thương yêu và tha thứ, khiêm nhường và lễ độ.
Người mẹ phải ngăn cấm con cái
làm điều ác. Làm mẹ phải biết nhận thức rành rẽ những hành vi của con cái. Hành
vi ác phải triệt để ngăn cấm không cho nó sinh khởi và phải cố gắng diệt trừ để
khỏi hư hỏng thân con, khỏi liên lụy đến mình và khỏi mất thanh thế gia phong.
Đồng thời, người mẹ phải hướng dẫn con cái biết và làm điều thiện. Điều thiện
tức là điều lành, là những gì làm tăng trưởng hay duy trì sự sống của con người
và của xã hội, là những gì ứng hợp với lệ luật của sự sống. Là cha mẹ, không
bao giờ muốn cho con cái lạc ra ngoài phương châm ấy, mà phải cố gắng uốn nắn
cho con theo đúng khuôn khổ của nó trong sự tìm hiểu và thực hành.
“Con hư tại mẹ”. Câu tục ngữ nầy đã chứng minh rất xác thực.
Trưng Trắc Thánh Nương đã từng nói rõ:
“Thảm thương bánh méo vì khuôn méo,
Chẳng đặng con
lân bởi mẹ mèo”.
Vậy chị em chúng ta nghĩ sao
khi ý niệm được trọng trách của người mẹ? Chẳng những là người mẹ trong gia
đình mà là người mẹ của quốc dân. Sự tồn vong của quốc gia, sự thịnh suy của xã
hội, người phụ nữ – Người làm mẹ – cũng gánh vác một phần lớn lao trách nhiệm.
Người mẹ phải có một tình
thương chân thật thấm thía. Tình thương yêu của cha mẹ đối với con cái phải là
tình yêu thương chân thật thấm thía, thương yêu trong chia ngọt sẻ bùi trong
rét bức đói no, trong ốm đau tật bệnh. Nghĩa là không giờ phút nào, hoàn cảnh
nào mà cha mẹ lảng quên con cái, lảng quên sự yêu thương đùm bọc chở che. Đem
tình thương yêu chân thật trìu mến tiêm nhiễm sâu sắc vào huyết quản, tế bào
của con cái, làm cho con cái trong gia đình cùng một nhịp thở, một nhịp sống an
hoà, vui vẻ, đạo đức, văn minh, tiến bộ với người mẹ.
Dù gặp cảnh nghèo chứ lòng mẹ
không nghèo. Lòng Mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào. Nuôi thể xác đứa con chưa bằng nuôi linh
hồn đứa con. Cho con học hành
tiến bộ chưa đủ, người mẹ còn phải để lại phúc đức cho con nhờ. Người ta thường
nói: “con nhờ đức mẹ, cháu hưởng lộc bà”, là có ý như vậy!
Cuối cùng là người mẹ phải
hướng dẫn hôn nhân cho con cái. Con cái khi tuổi xuân đến độ tất nhiên phải đòi
hỏi nơi cha mẹ vấn đề thành lập gia thất cho chúng. Trong trường hợp ấy, cha mẹ
không thể yên nhiên phó mặc cho đời son trẻ. Cha mẹ phải ra công dò xét tâm lý
con cái - nhất là người mẹ – phải tìm hiểu hoàn cảnh và cá tính của trai gái
nào có thể xứng hợp sánh đôi, đem lại hạnh phúc lâu dài cho chúng. Và sau khi
hai bên đã ý hợp tâm đồng bằng sự hiểu biết chân thật chứ không phải là sự cám
dỗ, mù quáng, áp bức, cha mẹ mới tùy theo hoàn cảnh, phong tục mà tác hợp cho
con.
Đến khi làm sui làm gia, đối
với dâu với rể, nhiệm vụ người đàn bà cũng không kém phần quan trọng. Khi định
làm sui, chúng ta phải giữ theo luật Đạo. Không nên chọn giàu sang theo kiểu
“môn đăng hộ đối” mà phải chú trọng phần tu hành, phúc đức của gia đình mà
thôi! Đối với dâu rể, người mẹ phải hết lòng thương yêu lo lắng như con đẻ,
không vì tiền tài mà để mất nhân nghĩa, đạo đức. Người đàn bà cần lưu ý việc cư
xử trong gia đình khi đã có rể có dâu cho mọi bề êm đẹp. Người mẹ cương quyết
nhưng dịu dàng, vui vẻ truyền lại bao kinh nghiệm quí báu của đời mình cho dâu
con tiếp tục xây dựng gia đình đạo đức.
Thưa quí chị em,
Nói tóm lại, người phụ nữ Cao
Đài phải nhìn xa thấy rộng, phải ý thức vai trò trọng đại của mình, thiên chức
làm con, làm vợ, làm mẹ, làm tín đồ, mà cố gắng quyết tâm thực hành những điều
hay lẽ thật đã trình bày trên đây, là đã góp phần xây dựng hữu hiệu, lớn lao
trong công cuộc phục hưng tinh thần văn minh đạo đức của dân tộc, đem lại hạnh
phúc vĩnh cửu cho gia đình, an ninh cho tổ quốc và đào tạo một nền văn hoá tốt đẹp cho xã hội.
Bởi vì, từ gia đình đến xã
hội, từ đạo giáo đến thế gian, quá trình sinh hoạt trong nhiều lãnh vực đã chỉ
chứng cho chúng ta thấy được vai trò của người phụ nữ ngày càng quan trọng.
Trong chiều hướng đó, chúng ta
có quyền tin tưởng nữ giới sẽ chia sẻ phần vinh dự trong công cuộc kiến tạo
tương lai huy hoàng cho nhân loại. Với vai trò người tín nữ Cao Đài, chúng ta còn ý thức được điều ấy
một cách rõ ràng hơn trong sứ mệnh “Thiên đạo giải thoát. Thế đạo đại đồng”.
Nguồn: Sống Đạo số 14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét