ĐÔI ĐIỀU CHIÊM NGHIỆM VỀ
PHÁP
CHÁNH TRUYỀN CỬU TRÙNG ĐÀI
Chánh Tuân
A. DẪN
NHẬP
Muốn lập một nền Đạo lớn lao như Đại Đạo
Tam Kỳ Phổ Độ có khả năng truyền giáo đến thất ức niên mà không lập Pháp thì
làm sao điều độ được số lượng giáo đồ quá đông gồm toàn thể nhân loại. Do vậy ngay
sau Đại Lễ Khai Minh Đại Đạo, vào giờ Tý đêm Rằm rạng sáng 16 tháng 10 năm Bính
Dần, Thầy đã ban hành Pháp Chánh Truyền Cửu Trùng Đài từ Phẩm Giáo Tông đến Lễ
Sanh. Về sau Đức Lý Giáo Tông ban hành bổ sung thêm phẩm Chánh Trị Sự, Phó Trị
Sự, Thông Sự và Pháp Chánh Truyền Cửu
Trùng Đài Nữ Phái. Đây chính là Chánh Pháp do Đức Chí Tôn ban truyền để
ứng dụng riêng cho cơ Phổ Độ Kỳ Ba này.
Nếu chưa nghiên cứu kỹ về giáo lý Đại Đạo
thì chúng ta sẽ rất dễ dàng cho rằng Pháp Chánh Truyền thật ra rất bình thường,
không có gì là quan trọng lắm. Tuy nhiên nếu có thời gian chiêm nghiệm kỹ thì
Pháp Chánh Truyền tuy với những lời văn mộc mạc súc tích đã nói lên được
tôn chỉ mục đích của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ
Độ; Thể hiện được lý dịch thật rõ nét; Tình huynh đệ đại đồng; Quyền Pháp của
Đạo và Pháp Chánh Truyền cũng đã cho chúng ta thấy được hình thể của Đức Chí
Tôn được thể hiện rõ ràng qua các qui
định của Pháp Chánh Truyền.
B. NỘI
DUNG
I. TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC LẬP PHÁP CHÁNH
TRUYỀN CHO NỀN ĐẠI ĐẠO
Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ chính thức
ra mắt nhơn sanh vào ngày Rằm tháng 10 năm Bính Dần (1926). Sau đó một ngày,
Đức Chí Tôn liền ban hành Pháp Chánh Truyền Cửu Trùng Đài để làm kim chỉ nam
cho Hội Thánh thay mặt Người tại thế gian mà hành đạo cho có trật tự. Sự kiện
đó chứng tỏ rằng luật lệ đối với hành chánh Đạo là quan trọng đến dường nào!
II.
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH PHÁP CHÁNH TRUYỀN CỬU
TRÙNG ĐÀI
1.
CHỦ THỂ VÀ THỜI ĐIỂM BAN HÀNH PHÁP CHÁNH
TRUYỀN (PCT) CỬU TRÙNG ĐÀI NAM PHÁI TỪ PHẨM GIÁO TÔNG CHO ĐẾN PHẨM LỄ SANH
Thầy
ban PCT Cửu Trùng Đài Nam
phái từ Phẩm Giáo Tông cho đến Phẩm Lễ Sanh.
Vào giờ Tý, đêm Rằm rạng sáng 16 tháng 10
Bính Dần, Đức Chí Tôn đã giáng đàn ban Pháp Chánh Truyền (PCT) Nam phái từ phẩm
Giáo Tông cho đến Lễ Sanh. (Lịch sử Đạo
Cao Đài quyển 2 của CQPTGL ĐĐ trang 61)
2.
CHỦ THỂ VÀ THỜI ĐIỂM BAN HÀNH PHÁP CHÁNH
TRUYỀN CỬU TRÙNG ĐÀI NỮ PHÁI
Đức
Lý Giáo Tông ban Pháp Chánh Truyền Nữ phái.
Ngày 11 tháng giêng năm Đinh Mão 1927 Đức
Giáo Tông ban Pháp Chánh Truyền Nữ phái.
3.
CHỦ THỂ VÀ THỜI ĐIỂM BAN HÀNH PHÁP CHÁNH
TRUYỀN CỬU TRÙNG ĐÀI NAM
PHÁI PHẨM CHÁNH, PHÓ TRỊ SỰ, THÔNG SỰ
Đức Lý Giáo Tông bổ sung phần Chức Việc
áp dụng cho cả nam và nữ.
Các phẩm Chánh Phó Trị Sự và Thông Sự được
qui định trong Đạo Nghị Định số ba.
(PCT chú
giải, mục IX Quyền Hành Chánh Trị Sự.
Hội Thánh ban hành sáu Đạo Nghị Định vào ngày mùng 3 tháng 10 Canh Ngọ (1930))
III. ĐÔI ĐIỀU CHIÊM NGHIỆM VỀ PHÁP CHÁNH TRUYỀN
CỬU TRÙNG ĐÀI:
1. YẾU LÝ DƯƠNG LÀM CHỦ NỀN ĐẠO TRONG PHÁP
CHÁNH TRUYỀN CỬU TRÙNG ĐÀI: TẠI SAO PHẨM VỊ CAO NHẤT CỦA NỮ PHÁI CHỈ ĐẾN PHẨM
ĐẦU SƯ?
PCT: “Nữ Phái phải tùng Ðầu Sư Nữ Phái song Ðầu
Sư lại phải tùng quyền của Giáo Tông và Chưởng Pháp.”
CHÚ GIẢI: “Hội
Thánh Nữ Phái phải tùng quyền Ðầu Sư Nữ Phái, song cả thảy đều phải tùng quyền
Giáo Tông và Chưởng Pháp.
Xem rõ lại thì Pháp Chánh
Truyền truất quyền Nữ Phái không cho lên địa vị Chưởng Pháp và Giáo Tông.
Hộ Pháp để lời phân phiền
cùng Thầy như vầy: Thưa Thầy, Thầy đã nói con cũng đồng con, Nam Nữ vốn như
nhau mà Thầy truất quyền của Nữ Phái không cho lên địa vị Chưởng Pháp và Giáo
Tông, thì con e mất lẽ công bình chăng?
Thầy dạy: Thiên Ðịa hữu Âm
Dương, Dương thạnh tắc sanh, Âm thạnh tắc tử. Cả Càn Khôn Thế Giái nhờ Dương
thạnh mới bền vững; cả chúng sanh sống bởi Dương quang, ngày nào mà Dương quang
đã tuyệt, Âm khí lẫy lừng, ấy là ngày Càn Khôn Thế Giái phải chịu trong hắc ám,
mà bị tiêu diệt. Nam ấy Dương, Nữ ấy Âm, nếu Thầy cho Nữ Phái cầm quyền Giáo
Tông làm chủ nền Ðạo thì là Thầy cho Âm thắng Dương, nền Ðạo ắt bị tiêu tàn ám
muội.
Hộ Pháp lại kêu nài nữa rằng:
Thầy truất quyền Giáo Tông Nữ Phái thì đã đành, song quyền Chưởng Pháp thì
tưởng dầu ban cho cũng chẳng hại.
Thầy dạy: Chưởng Pháp cũng là
Giáo Tông, mà còn trọng hệ hơn, là vì người thay mặt cho Hộ Pháp nơi Cửu Trùng
Ðài. Thầy đã chẳng cho ngồi địa vị Giáo Tông, thì lẽ nào cho ngồi địa vị Hộ
Pháp con. Bởi chịu phận rủi sanh, nên cam phận thiệt thòi, lẽ Thiên Cơ đã định,
Thầy chỉ cậy con để dạ thương yêu binh vực thay Thầy kẻo tội nghiệp!”
2.
YẾU LÝ “BA HIỆP MỘT”
CHÚ GIẢI: “Đức
Giáo Tông ban quyền hành trọn vẹn cho Chánh Phối Sư, lại buộc cả ba đều để 6
bàn tay vào cho đủ (chẳng nên để hở) khi dâng luật, tức là buộc cả 3 cùng hiệp
một mới đặng. Đầu Sư cũng vậy mà Chưởng Pháp cũng vậy, phải hiệp một mới hạp
câu Thánh Ngôn: Một thành ba mà ba cũng như một”. Đây chính là lý đạo nhiệm
mầu: “Ấy là cơ vô vi TINH KHÍ THẦN hiệp
nhứt, chư hiền hữu khá nhớ à! Ngọc là Tinh, Thượng là Khí, Thái là Thần, nếu cả
ba không hiệp thì chẳng hề thành Đạo đặng khá nhớ!” (TNHT)
Đây cũng chính là sự thể hiện của chữ “Hòa”. Có hòa hiệp mới
bảo tồn được Chánh Pháp của Thầy và có hòa hiệp mới có được sự yêu thương trong
tình huynh đệ đại đồng.
3. PHẨM
GIÁO TÔNG
3.1 Tình
huynh đệ đại đồng trong toàn Đạo
PCT: “Giáo Tông là anh cả các con”
Đây chính là điểm rất đặc biệt của Tôn Giáo Cao Đài! Người
tín đồ Cao Đài chỉ gọi duy nhất Đức Thượng Đế là Thầy, còn lại trong hàng chức
sắc, chức việc đều gọi bằng huynh tỷ đệ muội, đều xem như là anh em một nhà, đều
là con chung của cùng một Đấng Cha Lành.
3.2 Tại sao trong Pháp Chánh
Truyền Thầy lại hạn chế quyền hành của Giáo Tông?
PCT: “Nó có quyền về phần xác chớ không có quyền về phần hồn”?
CHÚ GIẢI: “Ðây là lời Thánh giáo của
Thầy đã dạy cho Đức Hộ Pháp khi Ngài hỏi Thầy về quyền của Giáo Tông.
Hộ Pháp hỏi: "Thưa Thầy theo như luật
lệ Thánh Giáo Gia Tô Thầy truyền tại thế, thì Thầy cho Giáo Tông trọn quyền về
phần hồn và phần xác; Người nhờ nương quyền hành cao trọng đó, Ðạo Thánh mới có
thế lực hữu hình như vậy. Ðến ngày nay, Thầy giảm quyền Giáo Tông của mấy con
về phần hồn đi, thì con sợ e cho Người không đủ quyền lực mà độ rỗi chúng sanh
chăng?”
Thầy đáp: "Cười! Ấy là một điều lầm
lạc của Thầy, vì nặng mang phàm thể mà ra. Thầy cho một người phàm đồng quyền
cùng Thầy về phần hồn thì nó lên ngai Thầy mà ngồi, lại nắm quyền hành CHÍ TÔN
ấy, đặng buộc nhơn sanh phải chịu lòn cúi trong vòng tôi tớ của xác thịt hơn
nữa. Cái quyền hành quí hóa ấy, Thầy tưởng vì thương mà cho các con, nào dè nó
là một cây gươm hai lưỡi để giục loạn cho các con.
Nay Thầy đến chẳng phải lấy nó lại, mà Thầy
chỉ đến làm cho tiêu diệt cái hại của nó; nếu muốn trừ cái hại ấy thì chẳng chi
hay hơn là chia đôi nó ra, không cho một người nhứt thống.
Kẻ nào đã nắm trọn phần hữu hình và phần
Thiêng Liêng, thì là độc chiếm quyền chánh trị và luật lệ, mà hễ độc chiếm
quyền chánh trị và luật lệ vào tay, thì nhơn sanh chẳng phương nào thoát khỏi
vòng áp chế.
Như Thầy để cho Giáo Tông trọn quyền về
phần xác và phần hồn (nghĩa là Ðạo và Ðời) thì "HIỆP THIÊN ÐÀI” lập ra chẳng là vô ích lắm sao con? “CỬU TRÙNG
ÐÀI” là Ðời "HIỆP THIÊN ÐÀI” là
Ðạo, Ðạo không Ðời không sức, Ðời không Ðạo không quyền: Sức quyền tương đắc
mới mong tạo thời cải thế, ấy là phương hay cho các con liên hiệp cùng nhau,
chăm nom săn sóc lẫn nhau, mà giữ vẹn Thánh Giáo của Thầy cho khỏi trở nên phàm
giáo”.
Đến đây gợi cho chúng ta nhớ đến lời dạy của Thầy trong
Thánh Ngôn hiệp tuyển: “Thầy nhứt định đến chính mình Thầy độ rỗi các con,
chẳng chịu giao Chánh Giáo cho tay phàm nữa”.
4. PHẨM
CHƯỞNG PHÁP
4.1 TAM GIÁO ĐỒNG QUYỀN, TUY BA MÀ MỘT
PCT: “Pháp luật Tam Giáo tuy phân biệt nhau, song trước mặt Thầy vẫn coi như
một”.
“Ba ấn phải có trên mỗi luật mới đặng thi hành”
CHÚ GIẢI: “Bất
câu luật lệ hay là kinh điển nào, dầu đã đặng hai vị Chưởng Pháp phê chuẩn rồi
mà thiếu một thì cũng không đặng phép ban hành; Nghĩa là: trên Giáo Tông không
đặng phép thị nhận; dưới Đầu Sư không đặng phép thi hành.”
“Ấy vậy Chưởng Pháp có quyền
xem xét luật lệ trước buổi thi hành. Luật lệ nào không có ba ấn Chưởng Pháp thị
nhận và Hiệp Thiên Đài phê chuẩn thì cả chư Tín đồ của Thầy không tuân mạng.”
Qua quy định này giúp cho chúng ta thấy được Thầy đã trao
quyền hành rất lớn cho phẩm Chưởng Pháp. Mỗi vị Chưởng Pháp đều đóng một vai
trò rất hệ trọng trong việc xét nét và phê chuẩn luật lệ. Đồng thời cũng qua
quy định này gợi cho chúng ta thấy được một điều: Mọi luật lệ nếu muốn được thực
thi cho cả chư Tín đồ thì đều buộc phải phù hợp với luật lệ của cả Tam giáo,
nếu chỉ trái với luật lệ của một trong Tam giáo cũng sẽ làm cản trở đến cơ tiến hóa của nhơn sanh.
4.2 CƠ CHẾ
KIỂM SOÁT RẤT CHẶT CHẼ VÀ HI HỮU TRONG QUI ĐỊNH CỦA PHÁP CHÁNH TRUYỀN: CHƯỞNG
PHÁP LÀ NGƯỜI THAY MẶT HỘ PHÁP (HIỆP THIÊN ĐÀI) NƠI CỬU TRÙNG ĐÀI.
CHÚ GIẢI: “Cửu
Trùng Đài vẫn là Chánh Trị mà Chưởng Pháp lại thuộc về luật lệ, vậy thì Chưởng
Pháp là người thay mặt Hiệp Thiên Đài nơi Cửu Trùng Đài. Ấy là cơ Đạo cổ kim hi
hữu”.
“Thường
thấy Thiên mạng hằng quá sức phàm thế, còn phàm thế thì hằng nghịch hẳn Thiên
mạng; biết đâu một ngày kia Giáo Tông không lập ra luật lệ quá sức người phàm
làm đặng, và Đầu Sư lại không xin một luật lệ quá phép Thiên Điều thì hai đàng
ắt phải nghịch lẫn nhau; Nếu không có Chưởng Pháp đứng trung gian
thế quyền Hiệp Thiên Đài nơi Cửu Trùng Đài mà điều độ cho êm đềm hòa nhã thì
nền Đạo phải chinh nghiêng sanh ra rối loạn, thượng hạ khắc nhau phải mất trật
tự mà gây nên đảng phái.”
Nhờ cơ chế kiểm soát này mới đảm bảo được tính khách quan,
thận trọng, “dân chủ” và chặt chẽ trong việc phê chuẩn luật lệ của Giáo Tông: “Dầu cho luật lệ ấy đã thuận ý Giáo Tông đi
nữa thì Giáo Tông cũng không quyền phê chuẩn tức thì, nhưng buộc phải giao lại
cho Chưởng Pháp xét nét trước đã.” (CHÚ
GIẢI)
Đây cũng chính là thể hiện được lý dịch: “Trong Âm có Dương
và trong Dương có Âm”; “Âm Dương hòa hiệp”. (Trong Cửu Trùng Đài lại có sự hiện
diện của Hiệp Thiên Đài).
Cổ kim hi hữu thật! Vì mỗi cơ quan hành sự sẽ không dẫm lên quyền hạn của nhau;
có sự phân quyền và phân nhiệm rất rõ rệt; thể hiện bình đẳng một cách tuyệt
đối. Vì Đạo Trời nhất định phải có những
nét tuyệt vời và hoàn hảo đặc biệt như vậy.
5. PHẨM
ĐẦU SƯ
5.1 Đầu
Sư cầm quyền luôn cả về Chánh Trị và Luật Lệ (Vừa là người của Hiệp Thiên Đài nhưng
cũng vừa là người của Cửu Trùng Đài).
PCT: “Đầu Sư có quyền cai trị phần Đạo và phần Đời của chư môn đệ Chí Tôn.”
Đầu Sư có trọn quyền về Chánh Trị của Cửu Trùng Đài và phần
luật lệ của Hiệp Thiên Đài. Vậy thì Người có quyền thay mặt Giáo Tông và Hộ
Pháp trước mặt nhơn sanh. Hễ thay quyền cho Giáo Tông và Hộ Pháp, tức là người
của Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài.
Nhờ có quyền hành lớn lao này, Đầu Sư có đủ thế lực mà ngăn
ngừa tà quyền hại Đạo. Thảng gặp cơn nguy biến mà ba Chánh Phối Sư không đủ sức
chống ngăn thì Đầu Sư đặng dùng quyền thống nhứt ấy mà điều khiển Hội Thánh. Cả
chức sắc Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài phải phục mạng, dầu cho Giáo Tông và
Hộ Pháp cũng phải vậy.
Vì được quyền hạn rất lớn như vậy, nên để tránh việc chuyên
quyền, trong PCT Thầy có quy định: “Chúng
nó phải tuân mạng lệnh Giáo Tông, làm y như luật lệ Giáo Tông truyền dạy”.
CHÚ GIẢI: “Đầu
Sư chỉ có tuân mạng lịnh của Giáo Tông mà thôi, dầu cho Người, là Người thay
mặt cho Hiệp Thiên Đài về mặt luật lệ đi nữa thì luật ấy trước đã xét nét bởi Chưởng Pháp
và phê chuẩn của Hiệp Thiên Đài rồi, tức là luật lịnh của Hiệp Thiên Đài sẵn
định vào đó.”
5.2 Bởi
tùng theo Tân Luật nên quyền lực của ba chi vẫn như nhau.
PCT: “Ba chi tuy khác, chớ quyền lực
như nhau”
CHÚ GIẢI: “Ba
vị Đầu Sư không ai lớn, không ai nhỏ. (Hay) Quyền vốn đồng quyền, luật lệ nào
của Giáo Tông truyền xuống hay là của nhơn sanh dâng lên mà đã có Chưởng Pháp
và Hiệp Thiên Đài phê chuẩn thì dầu cho một người trong ba mà chịu vâng mạng
thì luật lệ ấy cũng phải buộc ban hành”.
Đến đây chúng ta hãy cùng chiêm nghiệm một điều: Tại sao luật lệ nào không có đồng thời
cả ba Ấn của Chưởng Pháp thị nhận và Hiệp Thiên Ðài phê chuẩn thì cả chư Tín Ðồ
của Thầy không tuân mạng? Trong khi đó đối với Đầu Sư thì khi đã có cả ba Ấn
của Chưởng Pháp và Hiệp Thiên Ðài phê chuẩn, thì dầu cho một người trong ba mà
chịu vâng mạng thì luật lệ ấy cũng phải buộc ban hành? Cái nghịch lý ấy là luật
Âm Dương trong Tam Tiên. Con số Tam tài: Thiên (Giáo Tông), Nhơn (Chưởng Pháp)
đã hiệp rồi thì phần Đầu Sư (Địa) dầu chỉ một người cũng cho là đủ. Bởi vì Đầu
Sư là đứng vào Địa Tiên. Hơn nữa, trong PCT CHÚ GIẢI có ghi: “Thảng có một người trong ba mà tuân mạng
lịnh đặng thị cũng chưa quyết đoán rằng luật lệ ấy đã nghịch hẳn với nhơn sanh,
mà hễ nếu chưa nghịch hẳn cùng nhơn sanh
thì buộc phải ban hành”.
5.3 Là người đại diện cho nhơn
sanh, bảo vệ quyền lợi cho nhơn sanh
Thầy đã ban cho phẩm Đầu Sư có được quyền
hạn rất lớn:
PCT:
“Như luật lệ nào Giáo Tông đã truyền dạy
mà cả ba đều ký tên không tuân mạng thị luật lệ ấy phải trả lại cho Giáo Tông,
Giáo Tông truyền lịnh cho Chưởng Pháp xét nét lại nữa”
Qua quy định này cho chúng ta thấy được
tính “dân chủ” rất cao trong Pháp Chánh Truyền Cửu Trùng Đài. Không phải nhất
nhất tất cả luật lệ nào mà khi đã được Giáo Tông và Chưởng Pháp phê chuẩn cũng đều
buộc phải thi hành. Bởi vì Đầu Sư là người đại diện cho nhơn sanh, hiểu nhơn
sanh hơn và là người bảo vệ quyền lợi cho nhơn sanh nên nếu khi cả ba đều ký
tên không tuân mạng thì tất nhiên sẽ có lý do chính đáng của nó, do vậy Pháp
Chánh Truyền quy định luật lệ ấy phải trả về cho Giáo Tông rồi Giáo Tông truyền
lịnh cho Chưởng Pháp xét nét lại cho phù hợp với nhơn sanh hơn.
5.4 Quyền
thống nhứt của Đầu Sư
CHÚ
GIẢI: “Đầu Sư có trọn
quyền về phần chánh trị của Cửu Trùng Đài và phần luật lệ của Hiệp Thiên Đài.
Vậy thì Người đặng quyền thay mặt cho Giáo Tông và Hộ Pháp trước mặt nhơn sanh.”
“Nhờ quyền lớn lao nầy Đầu Sư sẽ có đủ thế
lực mà ngăn ngừa tà quyền hại đạo. Thảng gặp cơn nguy biến mà ba Chánh Phối Sư
không đủ sức chống ngăn, thì Đầu Sư đặng dùng quyền thống nhứt ấy mà điều khiển
Hội Thánh. Cả Chức Sắc Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài phải phục mạng dầu cho
Giáo Tông và Hộ Pháp cũng phải vậy.”
Chúng ta hãy cùng dừng lại và cùng chiêm
nghiệm về điều này! Tại sao khi gặp thế lực tà quyền hại đạo Pháp Chánh Truyền lại
không giao quyền thống nhứt này cho Giáo Tông hoặc Hộ Pháp mà lại giao cho Đầu
Sư mà lại còn buộc Giáo Tông và Hộ Pháp cũng phải phục mạng? Phải chăng Thầy không
giao quyền thống nhứt cho Giáo Tông hoặc Hộ Pháp là để tránh chuyên quyền, độc
đoán vì một khi quyền lực cao nhất mà được tập trung vào chỉ duy nhất một người
đứng đầu thì sẽ rất dễ gây nên những điều sai quấy và rất dễ trái luật đạo mà
không ai có thể ngăn cản được. Trong khi đó, Đầu Sư bao gồm cả 3 vị, do vậy khi
quyết định làm việc gì cũng phải có sự thống nhất chung của cả ba chứ không có
sự chuyên quyền của một người, bên cạnh đó mọi luật lệ và mệnh lệnh của Đầu Sư
ban ra trong thời điểm này đều đã phải tuân theo mạng lệnh của Giáo Tông và
Hiệp Thiên Đài lúc trước đã phê chuẩn rồi, do vậy không phải lo bị trái lẽ Đạo
và bị chuyên quyền, độc đoán. Có lẽ đây là quyền hành rất đặc biệt mà Thầy đã
ân ban cho phẩm Đầu Sư.
6. PHẨM
CHÁNH PHỐI SƯ
6.1 Tại sao Thầy không cho
Chánh Phối Sư lập luật?
PCT: “Ba vị Chánh Phối Sư đặng phép thế quyền cho Đầu Sư, song không đặng
quyền cầu phá luật lệ.”
CHÚ GIẢI: “Trên
kia đã nói Chánh Phối Sư là Người thay mặt cho cả nhơn sanh giữa Hội Thánh, ấy
là người làm chủ nhơn sanh trong nền Đạo (1), hễ là làm chủ nhơn
sanh, ấy là nhơn sanh vậy” [(1): Đây cũng nên giải, vì cớ nào kể từ phẩm Chánh
Phối Sư trở xuống thuộc về thế, nghĩa là đời và từ phẩm Đầu SƯ trở lên thuộc về
Thánh, nghĩa là Đạo, bên Hiệp Thiên Đài cũng có Đời và Đạo, mà Bát Quái Đài
cũng phải có vậy, mới nhằm cơ hiệp một đời cùng Đạo. Tức là trong Đạo có Đời,
mà trong Đời cũng có Đạo].
“Hễ trái mạng lịnh Thiêng
Liêng, sửa cải luật lệ mà hành sự, hoặc thêm, hoặc bớt thì là phạm phép Thiên
điều làm cho Thánh Giáo trở nên Phàm Giáo. Nhơn sanh là Phàm, Hội Thánh là
Thánh, nếu không Hội Thánh phê chuẩn thì những điều chi sửa cải bởi Chánh Phối
Sư, nghĩa là nhơn sanh đều là Phàm cả mà hễ Phàm thì khó mong lập vị Thánh cho
đặng. Bởi cớ ấy nên Thầy không cho Chánh Phối Sư lập luật; Ấy cũng là cơ mầu
nhiệm, diệt Phàm của Đạo vậy”.
6.2 Nguyên tắc phân quyền rất cụ thể rõ ràng, ở phẩm vị nào thì chỉ thực hiện quyền
hành của phẩm vị đó chứ không có sự lấn quyền của nhau.
Giữa cấp lãnh đạo ở trung ương và cấp thừa hành ở địa phương
có một phẩm vị trung gian rất quan trọng là ba vị Chánh Phối Sư. Ba vị này chỉ
được tùng quyền ngài Đầu Sư mà hành sự. Thật là hợp lý vì đã tôn trọng nguyên
tắc phân quyền thì một người được ban cho quyền hành sự không thể kiêm nhiệm
luôn quyền lập luật. Về điểm này Pháp Chánh Truyền có chú giải rõ ràng về quyền
hành của Chánh Phối Sư như sau: “Người
nắm trọn quyền hành sự nơi tay, chỉ tùng lịnh Đầu Sư phán dạy thế nào thì phải
tuân theo thế ấy, chẳng đặng cải mạng lịnh, tự mình chế biến, nhứt nhứt đợi lịnh
Đầu Sư, song Đầu Sư cũng không đặng phép giành quyền của ba vị ấy. Hễ Đầu Sư
lấn quyền hành sự mà không do nơi Chánh Phối Sư thì là quá quyền mình, ắt phải
phạm Pháp Chánh Truyền”.
7. PHẨM
PHỐI SƯ; GIÁO SƯ; GIÁO HỮU; LỄ SANH
Khi nói đến các phẩm vị trên thì trước hết chúng ta phải nói
đến vấn đề dạy dỗ mà đối tượng là nhân sanh. Muốn dạy dỗ người, nói pháp cho họ
nghe, điều cần nhất là người phụ trách công việc đó phải có đủ tâm, hạnh, đức, tài. Còn
nếu lỡ kém tài, thì ít ra tâm đức phải hơn người. Do vậy Pháp Chánh Truyền bắt
buộc muốn cầu phong vào hàng chức sắc Hội Thánh thì phải qua hàng Lễ Sanh là
phẩm vị có hạnh hơn hết được lựa chọn trong hàng tín đồ là vậy.
Về sự dạy dỗ, Pháp Chánh Truyền có chú giải như sau: “Cả chức sắc Hội Thánh Cửu Trùng Đài của
Thầy lập, phải tùy theo tôn chỉ Đạo, nghĩa là xu hướng về phần giáo dục mà thôi.
Thầy đã xưng là Thầy đặng dạy dỗ, còn tên của chức sắc đủ chỉ rõ ràng phận sự
giáo hóa là chánh vai của mỗi người, như Giáo Hữu, Giáo Sư, Phối Sư, Đầu Sư,
Giáo Tông; xem rõ lại thì tên mỗi vị chẳng mất chữ Giáo hay là chữ Sư. Cơ Đạo
từ cổ chí kim vẫn vậy, lại hiệp lời nầy: "Thiên mạng chi vị tánh, suất
tánh chi vị Đạo, Tu Đạo chi vị Giáo.” Thầy chỉ cậy Hội Thánh, Thầy đã đến lập, thay quyền cho Thầy mà dạy dỗ cả
con cái của Thầy, nghĩa là chúng sanh đặng lành, ấy là phận sự cần nhứt của Hội
Thánh đó.”
Muốn cho nhơn sanh
chịu nghe lời dạy dỗ thì điều kiện thiết yếu bắt buộc người lãnh nhiệm vụ dạy
dỗ nhơn sanh phải có hạnh làm người. Cho nên Pháp Chánh Truyền bắt buộc ai muốn
cầu phong vào hàng chức sắc Hội Thánh đều phải qua hàng Lễ Sanh là phẩm vị được
chọn lựa trong hàng tín đồ có hạnh hơn hết.
Qua đó chúng ta thấy
được nhiệm vụ chính yếu của Hội Thánh là
thương yêu, dắt dìu con cái của Đức Chí Tôn mà có đạt được kết quả tốt đẹp hay
không còn tùy thuộc nhiều yếu tố trong đó có luật pháp Đạo dùng để bảo tồn trật
tự.
8.
PHẨM CHÁNH
TRỊ SỰ, PHÓ TRỊ SỰ, THÔNG SỰ
Chánh Trị Sự, Phó Trị
Sự, Thông Sự là Chức Sắc của Đức Lý Giáo Tông lập thành. Ba
phẩm này rất quan trọng, là hiện thân, thay mặt cho Giáo Tông và Hộ Pháp ở mọi
lúc, mọi nơi. Ba phẩm này
được gọi chung là Ban Trị Sự.
Nhờ có 3 phẩm này mà giúp cho Chơn Lý Đạo được rải đến khắp
nơi, nhơn sanh luôn được chăm nom, giúp đỡ cho
mọi sự sinh hoạt trong đời sống hàng ngày, giúp khó, trợ nghèo, có quyền xử
đoán, nhất là những việc bất bình nhỏ mọn xảy ra trong phần Ðịa phận của mình; là “cánh tay nối dài”, là “con mắt” của Giáo Tông và Hộ Pháp, thay mặt cho Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài chiếu soi đến khắp nơi để chia khổ ban vui, gìn
giữ lẽ công bằng cho nhơn sanh.
8.1 CHÁNH TRỊ SỰ (ĐẦU SƯ em):
- Là người thay mặt Đức Lý
Giáo Tông ở khắp mọi nơi để chăm lo cho nhơn sanh cả về Chánh Trị và luật lệ
(Đầu Sư em).
Chánh Trị Sự vừa là người đem tình thương ban rải khắp nơi
và cũng vừa là người giữ gìn lẽ công bình trong nhơn sanh.
CHÚ GIẢI: “Chánh Trị Sự phải chăm nom, giúp đỡ sự
sanh hoạt của môn đệ Thầy đã chịu dưới quyền điều khiển, giúp khó, trợ nghèo,
coi cả Tín Đồ như em ruột, có quyền xử đoán, nhứt là việc bất bình nhỏ mọn xảy
ra trong phần địa phận của mình, song phải tùng lịnh Giáo Hữu và Lễ Sanh cùng
người Đầu Họ.”
- Tại sao Chánh Trị Sự là
người của Cửu Trùng Đài mà vừa nắm quyền Chánh Trị của Cửu Trùng Đài lại vừa
được nắm quyền luật lệ của Hiệp Thiên Đài?
Về điểm này, Pháp Chánh Truyền có chú giải như sau: “Lời Đức Lý Giáo Tông nói: Chánh Trị Sự là
người thay mặt Lão, làm anh cả của chư Tín đồ trong phần địa phận của nó, Lão muốn thế nào cho Lão có
mặt khắp nơi, tận ven Trời cùng góc bể. Lão tưởng Hiền Hữu cũng muốn vậy chớ.
Trong nhơn sanh, hạng trí thức thì ít, hạng ngu muội thì nhiều, nếu chúng ta
không có đủ sức điều đình, thì khó mà rải chơn lý Ðạo khắp nơi cho đặng. Càng
thân cận với nhơn sanh lại càng chịu nhiều sự khó khăn rắc rối; chúng ta phải
liệu phương nào mà trừ diệt những sự khó khăn ấy khi mới nảy sanh ra thì nền Ðạo mới khỏi loạn
lạc. Vậy Lão xin Hiền Hữu ban quyền
cho Chánh Trị Sự đặng phép xử trị, hầu có thể dạy dỗ, sửa răn, thay quyền cho
chúng ta trong chốn thôn quê sằn dã”. (Khi ấy Hộ Pháp đã chịu lời cùng Đức Lý Giáo Tông
và đã hiểu rõ ý tứ cao thượng ấy).
- Đến đây, chúng ta hãy cùng chiêm
nghiệm một điều: Tại sao phẩm Giáo Tông không được phép nắm cả quyền Chánh trị
và Luật lệ trong khi đó Phẩm Đầu Sư và Phẩm Chánh Trị Sự lại được nắm cả hai quyền
này?
Phải chăng phẩm Giáo Tông là phẩm cao nhất, nếu Thầy giao
trọn cả 2 quyền Chánh Trị và Luật lệ vào tay Giáo Tông thì sẽ không thể không tránh
khỏi sự chuyên quyền, áp chế. Trong Pháp Chánh Truyền chú giải Thầy có dạy: “Kẻ nào đã nắm trọn phần hữu hình và phần
Thiêng Liêng, thì là độc chiếm quyền chánh trị và luật lệ, mà hễ độc chiếm
quyền chánh trị và luật lệ vào tay, thì nhơn sanh chẳng phương nào thoát khỏi
vòng áp chế. Như Thầy để cho Giáo Tông
trọn quyền về phần xác và phần hồn (nghĩa là Ðạo và Ðời) thì "HIỆP THIÊN
ÐÀI” lập ra chẳng là vô ích lắm sao con?
“CỬU TRÙNG ÐÀI” là Ðời "HIỆP THIÊN
ÐÀI” là Ðạo, Ðạo không Ðời không sức, Ðời không Ðạo không quyền, Sức quyền
tương đắc mới mong tạo thời cải thế, ấy là phương hay cho các con liên hiệp
cùng nhau, chăm nom săn sóc lẫn nhau, mà giữ vẹn Thánh Giáo của Thầy cho khỏi
trở nên phàm giáo”.
Còn đối với 2 phẩm Đầu Sư và Chánh Trị Sự tuy được nắm cả 2
quyền Chánh trị và Luật lệ trong tay nhưng vẫn là cấp dưới, vẫn luôn phải chịu
sự “kiểm soát” và tuân theo mạng lệnh của cấp trên. Đầu Sư vẫn phải tùng quyền Giáo
Tông. (Trong Pháp Chánh Truyền, Thầy có quy định: “Chúng nó phải tuân mạng lệnh
Giáo Tông, làm y như luật lệ Giáo Tông truyền dạy”.) Hơn nữa, dầu cho Đầu Sư có thay mặt cho Hiệp
Thiên Đài về mặt luật lệ thì luật ấy trước đã được xét nét bởi Chưởng Pháp và
phê chuẩn của Hiệp Thiên Đài rồi, tức là luật lịnh của Hiệp Thiên Đài sẵn định
vào đó.
Còn Chánh Trị Sự vẫn phải chịu sự “kiểm soát” của Thông Sự
và cấp trên là Giáo Hữu và Lễ Sanh cùng người Đầu Họ nên không thể chuyên quyền
và làm điều trái lẽ đạo được.
Đây quả thật là quy định rất đặc biệt và là một cơ chế kiểm
soát rất chặt chẽ mà Ơn Trên đã lập ra trong Pháp Chánh Truyền.
8.2 PHÓ CHÁNH TRỊ SỰ (GIÁO TÔNG em):
Phó Trị Sự là người luôn mang
tình thương ban rải đến khắp mọi nơi, là người chỉ có quyền về Chánh Trị chứ
không có quyền về luật lệ.
CHÚ GIẢI: “Người
có quyền về Chánh Trị chớ không có quyền về luật lệ, đặng phép sửa đương, giúp
đỡ dìu dắt, dạy dỗ chư Tín đồ trong địa phận trấn nhậm mà không đặng phép xử
đoán.”
“Cấm nhặt không cho Phó Trị
Sự lấn quyền về luật lệ”.
8.3 THÔNG SỰ (HỘ PHÁP em):
Thông Sự là người chỉ có quyền
về luật lệ chứ không có quyền về Chánh Trị. Là người luôn gìn giữ lẽ công bình
cho nhơn sanh.
CHÚ GIẢI: “Những
chi sái luật Ðạo, chẳng y theo lịnh Hội Thánh tư truyền, hoặc sửa cải Tân Luật,
hoặc cải lịnh hành chánh, nếu chẳng có phép của Chánh Trị Sự truyền dạy mà Phó
Trị Sự tự chuyên thi hành, Hội Thánh lại không hay biết chi hết thì tội tình ấy về phần Thông Sự.
Tuy người phải chịu dưới
quyền Chánh Trị Sự mặc dầu, song đặng quyền sửa lỗi của Chánh Trị Sự. Thảng như
đã thấy lẽ vô Ðạo hiển nhiên của Chánh Trị Sự, thì Thông Sự đặng phép can gián
sửa lỗi; nếu đã nhiều phen mà Chánh Trị Sự chẳng nghe và đã có tư tờ về Cửu Trùng
Ðài mà Cửu Trùng Ðài yêm ẩn thì người
đặng phép tư tờ về Hiệp Thiên Ðài mà cầu
xin sửa trị. Người phải chăm nom, binh vực những kẻ cô thế, bất câu người có
Ðạo hay là ngoại Ðạo, hoặc là bị tai nạn thình lình, hoặc bị nghèo nàn đói khó,
hoặc bị bịnh hoạn cô thân, hoặc phải bị tha hương lữ thứ, hoặc bị yếu tha già
thải, người đặng trọn quyền buộc
Phó Trị Sự phải liệu phương giúp đỡ.”
Thông Sự được trao quyền hành rất đặc biệt là vừa tùng quyền
Chánh Trị Sự nhưng lại vẫn có quyền sửa lỗi của Chánh Trị Sự. Điều này cho
chúng ta thấy được một cơ chế “kiểm soát” rất chặt chẽ và hi hữu, luôn đảm bảo
gìn giữ được lẽ công bình trong mọi lúc, mọi nơi.
Do vậy vai trò của Thông Sự rất là trọng yếu vì người luôn giữ
vai trò là gìn giữ lẽ công bằng cho nhơn sanh. Thầy đã nói: “Nếu dưới mắt các con còn thấy một điều mất
lẽ công bình thì Đạo chưa thành lập. Bực
hạ đẳng nhơn sanh thường bị hiếp đáp vì mất lẽ công bình hơn hết. Bởi cớ ấy mà
quyền của Thông Sự rất nên yếu trọng” (CHÚ
GIẢI)
Đến đây chúng ta hãy cùng chiêm nghiệm tại sao Chánh Trị Sự (phẩm
lớn nhất của hàng chức việc) lại là Đầu Sư Em mà không phải là Giáo Tông Em, và
Phó Trị Sự tại sao không là Đầu Sư Em mà là Giáo Tông Em? Chúng ta cùng trở lại
với quyền thống nhứt của Ba Đầu Sư, một đặc quyền vừa là quyền Chánh Trị lại
kiêm cả quyền luật lệ. Và cũng bởi cái quyền đặc biệt này mà Chánh Trị Sự được
gọi là Đầu Sư Em (giống như đặc quyền của Đầu Sư), nên mặc đạo phục Cửu Trùng
Đài mà có thêm dây sắc lịnh màu trắng buộc ngang bụng (dây sắc lịnh tượng trưng
cho luật lệ, tức quyền “Tư pháp”). Ngược lại, Phó Trị Sự chỉ có quyền về Chánh
Trị chứ không có quyền về luật lệ (giống như quyền hành của Giáo Tông nên được
gọi là Giáo Tông Em). Do vậy Phó Trị Sự mặc đạo phục không có thắt dây sắc lịnh
trắng ngang bụng. Và Thông Sự là người thay mặt cho Hộ Pháp giữ gìn luật lệ
trong địa phương mình, không có quyền về Chánh Trị mà chỉ có quyền về luật lệ (giống
như quyền hành của Hộ Pháp nên gọi là Hộ Pháp Em) nên mặc đạo phục không có
viền chỉ kim tuyến, hai bên cổ có thêu ba Cổ Pháp của Đạo y như của Hộ Pháp, có
thắt dây sắc lịnh trắng. Quyền hành của Chánh Trị Sự, Phó Trị Sự và Thông Sự quả
thật là rành mạch, phân minh, chẳng khác nào quyền hành của Giáo Tông, Hộ Pháp
và Ba Đầu Sư đã cùng được minh giải trong Pháp Chánh Truyền. Vì vậy mà Ban Trị
Sự được gọi là Hội Thánh Em, thay mặc cho Hội Thánh Lưỡng Đài trông nom chăm
sóc mọi sinh hoạt về tinh thần lẫn vật chất của bổn Đạo trong địa hạt của mình.
Chúng ta chỉ cần hiểu thấu đáo về sứ mạng của Ban Trị Sự, và
thực thi đúng cái tinh thần theo luật định về các chức vụ Chánh Trị Sự, Phó Trị
Sự và Thông Sự là chúng ta cũng đã thấy được hết giá trị của những gì ghi chép
trong Pháp Chánh Truyền rộng lớn biết bao. Cho nên sứ mạng của Ban Trị Sự là vô
cùng khó khăn, nặng nề, chứ không phải dễ dàng như có người lầm tưởng. Để nói
lên tầm quan trọng của Ban Trị Sự, Pháp Chánh Truyền đã dùng danh từ Hội Thánh
Em để gọi Ban Tri Sự thật là tuyệt hảo lắm thay!. Ban Trị Sự rất gần gũi với nhơn
sanh nên dễ dàng thay mặt cho Hội Thánh săn sóc đời sống của mọi Tín đồ, đồng
thời Ban Trị Sự rõ ràng tường tận hơn ai hết trong việc nắm bắt được các nguyện
vọng của chư Tín đồ hầu đệ trình lên Hội Thánh các nguyện vọng đó để Hội Thánh tìm
phương pháp giải quyết thỏa đáng mọi thắc mắc và hỗ trợ giúp đỡ cho chư Tín đồ.
Qua
đây cũng giúp cho chúng ta thấy được tuy phẩm Chánh Trị Sự, Phó Trị Sư, Thông
Sự không phải là lớn so với hàng cửu phẩm của Cửu Trùng Đài nhưng phẩm này lại
vô cùng hệ trọng và thiêng liêng cao cả. Bởi vì nhờ có phẩm này mà Chơn Lý Đạo
mới được ban rải đến khắp mọi nơi, tận ven Trời cùng góc bể như lời dạy của Đức
Lý Giáo Tông.
9.
QUYỀN HÀNH
CỦA CÁC PHẨM NỮ PHÁI
CHỈ CÓ QUYỀN HÀNH ĐỐI
VỚI NỮ PHÁI
- Gồm 7 cấp, đứng đầu
từ phẩm Đầu Sư cho đến Tín Đồ.
- Quyền hành của từng
phẩm vị giống như quyền hành phẩm vị tương ứng của Nam Phái nhưng chỉ có quyền
hạn đối với phái nữ, không có chia ba phái Thái Thượng Ngọc như ở Nam Phái.
Đức Lý Giáo Tông lập Pháp
Chánh Truyền Nữ phái nhằm cậy nhờ Nữ phái để giáo hóa các nữ tín đồ. Bởi vì theo
luật Đạo thì Nam phái không đặng phép xen lẫn qua để điều đình Nữ phái được (Nữ
Nam phân biệt rõ ràng).
C. THAY LỜI KẾT
Pháp Chánh Truyền là Pháp lý công bình của Thiên Đạo, để
điều hành guồng máy Hành Chánh Đạo Cao Đài, lập chủ quyền cho Đạo.
Vì sự cần ích rất quan trọng đó mà mỗi một người Tín đồ –
Chức việc – Chức sắc Cao Đài đều phải tuân thủ mà không được phép sửa cải, hay
thêm bớt Pháp Chánh Truyền.
Chúng ta rất diễm phúc được Đức Chí Tôn ban ân huệ cho dân
tộc Việt Nam một mối Đạo Trời, để dìu dắt tận độ nhơn loại trong buổi Hạ Nguơn
Mạt Pháp này bằng một “Hiến Pháp” với đầy đủ bác ái công bình, thương yêu công
chánh, hiệp nhứt cả Trời và Người đồng trị.
Pháp Chánh Truyền quả là một bộ luật quí báu vô cùng! Càng
đem khai triển và càng chiêm nghiệm chúng ta càng thấy được nhiều giá trị độc
đáo trong đó. Chỉ với vai trò của Ban Trị Sự không thôi cũng đã là vô cùng hay,
vô cùng tốt đẹp rồi huống chi nói đến những vấn đề khác như vai trò của ba vị
Chưởng Pháp, ba vị Đầu Sư, ba vị Chánh Phối Sư… trong Hội Thánh Cửu Trùng Đài.
Chánh Tuân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét