TU CỨU ĐỘ
CỬU HUYỀN THẤT TỔ THOÁT A TỲ
Đạt Tường
DÀN BÀI
I. VẬY A TỲ ĐỊA NGỤC LÀ GÌ?1. Âm Quang.
2. Thanh Tịnh Đại Hải.
3. Phong Đô-Địa Phủ.
II. PHẢI LÀM GÌ ĐỂ THOÁT KHỎI A TỲ?
1. Xét mình, ăn năn tự hối.
2. Thường tụng kinh Cầu siêu, Di Lạc và làm âm chất.
III. TÓM LẠI.
Lời Thánh Giáo dạy về chủ đề tu cứu Cửu Huyền Thất Tổ thoát khỏi A Tỳ, lần đầu tiên đã được Đức Chí Tôn dạy ông Tư Mắc trong đàn ngày 25 tháng giêng Bính Dần (09.3.1926):
“Mắc, nghe dạy: (...) Ngươi muốn biết đặng cha ngươi thế nào, hỏi nơi ngươi. Hễ tu thì cứu đặng Cửu Huyền Thất Tổ. Ngươi là hiếu hạnh, chẳng lẽ để cha mẹ chịu đoạ A Tỳ. Nghe mà ăn năn sám hối (…)
Tâm thành của ngươi mới đặng mà thôi. Ngươi muốn vậy, làm lành lánh dữ. Ngày nào đặng vậy, Ta sẽ cho cha ngươi về nói lại cho ngươi biết.” [1]
I. VẬY A TỲ ĐỊA NGỤC LÀ GÌ?
1. Âm Quang:
Năm 1932, Đức Bát Nương giáng cơ giải thích:
"Âm quang là khí chất hỗn độn sơ khai, khi Chí Tôn chưa tạo hóa; lằn âm khí ấy là Diêu Trì Cung chứa để tinh vi vạn vật (...) Khi Chí Tôn đem dương quang ấm áp mà làm cho hóa sanh, thì cái khoảnh âm quang phải thối trầm làm tinh đẩu là cơ quan sanh hóa vạn linh. Song lằng âm quang ấy có giới hạn, nghĩa là nơi nào ánh linh quang của Chí Tôn chưa chiếu giám đến, thì phải còn tối tăm mịt mờ, chẳng sanh, chẳng hóa. Vậy thì nơi khiếm ánh thiêng liêng là Âm Quang, nghĩa là Âm Cảnh hay là Địa Ngục, Diêm Đình của chư Thánh lúc xưa đặt hiệu.
Vậy thì chính lời nhiều tôn giáo, nơi ấy là những chốn phạt tù những hồn vô căn, vô kiếp, nhơn quả buộc ràng, luân hồi chuyển thế nên gọi là Âm quang, đặng sửa chữ Phong Đô Địa Phủ của mê tín gieo truyền, chớ kỳ thật là nơi để cho các chơn hồn giải thân định trí. Ấy là một cái quan ải, các chơn hồn khi qui thiên phải đi ngang qua đó.
Sự khó khăn bước khỏi qua đó là đệ nhứt sợ của các chơn hồn. Nhưng tâm tu còn lại chút nào nơi xác thịt con người, cũng nhờ cái sợ ấy mà lo tu niệm.
Có nhiều hồn chưa qua khỏi đặng, phải chịu ít nữa đôi trăm năm, tùy chơn thần thanh trược. Chí Tôn buộc trường trai cũng vì cái quan ải ấy. Em biết đặng nhiều hồn còn ở lại nơi ấy trót ngàn năm chưa thoát qua cho đặng.
Thất Nương ở đó đặng dạy dỗ, nâng đỡ các chơn hồn, dầu sa đọa luân hồi cũng có người giúp đỡ. Nghe lại coi có phải vậy chăng? " [2]
Chúng ta xem tiếp một đoạn Thánh giáo xưa, năm Quý Dậu (1933), Đức Chí Tôn dạy và ân ban cho gia quyến một số quý vị tu theo Chiếu Minh.
“Ngọc Hoàng Thượng Đế tá danh Cao Đài Giáo Đạo Nam Phương.
Huờn quì trước. Ngọc, Phấn, Chi, Thiên quì sau.
Các con có lòng thành cầu nguyện nên Thầy cho vong Nguyễn Văn Chức là chồng và cha các con nhập cơ (...)
Nguyễn Văn Chức. Em chào chư Thiên mạng. Anh chào hiền muội. Cha chào các con. Nghe cha phân:
Các con mờ muội giữa chốn trần gian. Tám năm nay Trời mở Đạo cứu vớt nguyên nhơn mà các con mờ ám, mê trần, còn tham hữu hình nên các con chưa biết Đạo là gì cả. Đã ba phen cha có cho các con biết cha bị đọa nơi chốn A Tỳ, cầu các con tu đặng độ cha mà các con mơ mơ màng màng.
Các con ôi! Đời là biển khổ. Các con đương lặn hụp nơi biển trần vơi mà các con hữu phước hữu duyên gặp Tam Kỳ Phổ Độ cứu vớt chúng sanh. Sao các con mê muội đến dường ấy?” [3]
“Trời mở đạo cứu vớt nguyên nhơn” và “Hữu duyên hạnh ngộ Cao Đài” được hưởng Đại Ân Xá Kỳ Ba. Công đức cứu vớt chúng sanh được ghi công quả bội phần nhờ đó mà có thể cứu độ được vong linh Cửu Huyền Thất Tổ đang bị đoạ chốn A Tỳ. Đã là tín đồ Cao Đài Đại Đạo mà không ý thức được điều quan trọng này thì quả là chúng ta còn “mê muội đến dường ấy?”
Tuy nhiên, thực tế hành đạo cho chúng ta thấy quả thật còn nhiều đạo hữu chưa “giác ngộ” điểm mấu chốt này nên vẫn còn tu theo kiểu tài tử.
2. Thanh Tịnh Đại Hải:
A Tỳ có thể được hiểu với một tên khác là Thanh Tịnh Đại Hải. Chúng ta hãy xem một thí dụ nói về cái khổ ở nơi nầy của vong linh một đạo hữu là Lễ Sanh Chiếm ở Tây Ninh:
“Hôm con mới chết, ôi thôi nó khổ biết chừng nào! Một nỗi bị mẹ thằng Đường nó kêu tới kêu lui, chịu đà không nỗi! Thảm mới vừa hết thì lịnh Ngọc Hư Cung sai Như Ý Đế Quân bắt đem qua Thanh Tịnh Đại Hải Chúng.
Thưa sư phụ, ở chỗ đó khó quá! Bị bọn quỷ lồi, cô hồn gì đủ thứ nó mắng nhiếc tối ngày. Nhứt là nó chửi con là đồ làm biếng, tu gì cái đám thầy chùa mê hoặc. Hại nỗi, mấy tay phản đạo cũng có trong đám đó, đứng làm đầu xúi giục bọn kia chửi mãi. Con chịu như vậy hoài nên muốn chết đi cho rảnh. Ngặt chết không đặng, nó hành con quá chừng!
Đương thảm khổ, con lại may gặp một bà thiệt là tử tế ! Nghe nói là Thất Nương Diêu Trì Cung tới thăm rồi biểu con theo bà. Con mừng quá đi theo bà liền vì thấy bà đó oai quyền lớn lắm. Nghe nói bà đắc lịnh Ngọc Hư Cung vì có lời tình nguyện lãnh phần cai quản Thanh Tịnh Đại Hải Chúng nầy đã từ lâu, đặng giáo hóa và độ dẫn các vong linh vì tội tình bị sa đọa vào đây. Nội Thanh Tịnh Đại Hải Chúng nầy ai cũng đều kiêng sợ. Bà dắt con đến gởi Đức Quyền Giáo Tông.
Con ở đây một thời gian chẳng đặng bao lâu thì Đức Quyền Giáo Tông kêu con nói rằng: có lệnh Ngọc Hư cho con đi phó nhậm nơi tỉnh Ninh Bình làm ông Thần tại đó. Thật cũng là may quá! Ấy là nhờ bà Thất Nương thương tình thấy con thiệt thà lại bị đám âm hồn ngạ quỷ hành hạ căn kiếp của con nên bà ra tay giúp đỡ.” [4]
Đoạn Thánh Ngôn sau đây vào năm Ất Hợi (1935) ở Tòa Thánh Tây Ninh cho thấy:
“Hồ Quí Diên. Tiểu nhân xin chào chư vị đại đức. Lụy (...)
THI
Hèn lâu mơ ước đến thăm nhau,
Thanh Tịnh bấy lâu ở ngục lao;
Giận nặng hồng trần cân Tạo Hóa,
Hờn nhiều quả kiếp số Nam Tào.
Xe hồng đổ phước ngơ tay vịn,
Cánh hạc tuôn duyên cửa đọa nhào;
May gặp ân nhân Lê Đại Đức,
Ngọc Hư cứu rỗi khỏi âm tào.
Thưa Hộ Pháp, kẻ vô phước này chỉ trông công con tu niệm mong mỏi cảnh Thiên. Nào dè bạc phận, chúng nó vô Đạo không tu gây thêm nghiệp chướng.Hộ Pháp hỏi: còn (thằng) Sĩ thế nào?
- Sĩ nó bị quả kiếp tiền khiên nên đã luân hồi tái thế. Tớ có gặp Lễ Sanh Thuận ở Thanh Tịnh Đại Hải Chúng. Hôm nọ cùng tớ mới thọ lịnh Ngọc Hư đắc phong Thần vị.” [5]
Qua đây chúng ta thấy trường hợp của cố đạo hữu Hồ Quí Diên: Trong thời gian phải sám hối ở “Ngục lao Thanh Tịnh Đại Hải”, vong linh trông chờ công đức của con để mau thoát qua chốn U Đồ hầu vào cảnh Thiên. Con tuy đã nhập môn nhưng không lo tu mà còn gây thêm nghiệp chướng nên không giúp ích chi cho sự siêu rỗi của cha.
Sau một thời gian mắc kẹt ở đó đặng sám hối ăn năn, nhờ công đức khi xưa hành đạo phổ độ nhơn sanh nên vong linh được chơn linh Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung [6] cứu rỗi vượt qua chốn Âm Ty đắc phong Thần vị.
3. Từ Phong Đô - Địa Phủ cũng thường được thấy trong Thánh ngôn.
“Bạch sư phụ, [7] con là Thoại.
Hèn lâu, con nhớ sư phụ lắm, mà không biết làm sao!
Khi sư phụ bị đày, con rầu buồn quá đỗi, thêm lo lắng Đền Thánh chưa rồi. Làm ngày làm đêm, mang bịnh nan y nên qui liễu. Nhờ Chí Tôn thương nên ban lịnh Ngọc Hư Cung cho vào hàng Phối Thánh.
Bạch sư phụ, làm ơn nói với “Năm Sỏi” và “Sáu Út” rằng “Kỉnh” bị án sa đọa Phong Đô, nhưng nhờ công nghiệp tạo tác Tòa Thánh, Đức Chí Tôn ân xá cho chuyển kiếp luân hồi, mà chưa đi, còn đương kiện ông “Chữ”.” [8]
II. PHẢI LÀM GÌ ĐỂ THOÁT KHỎI A TỲ?
1. Xét mình, ăn năn tự hối:
Năm Giáp Tuất, Đức Thất Nương giải thích thêm về Âm Quang:
“Âm Quang là nơi Thần Linh Học gọi là nơi Trường Đình của chư hồn giải thể hay nhập thể. Đại Từ Phụ đã định nơi ấy cho Phật gọi là "Tịnh Tâm Xá" nghĩa là nơi của chư hồn đến đó đặng tịnh tâm, xét mình coi trong kiếp sanh bao nhiêu phước tội. Vậy thì nơi ấy là nơi xét mình.
Chớ chi cả nhơn sanh biết xét mình trước khi thoát xác thì tự nhiên tránh khỏi Âm Quang. Nói cho cùng nếu trọn kiếp, dầu gây lắm tội tình, mà phút chót biết ăn năn tự hối cầu khẩn Chí Tôn độ rỗi, thì cũng lánh xa khỏi cửa Âm Quang lại còn hưởng đặng nhiều ân huệ của Chí Tôn. Là các chơn hồn đặng tự hối hay là đặng giáo hóa mà hiểu trọn chơn truyền lập phương tự độ, hay là con cái của các chơn hồn cầu rỗi.
Ôi! Tuy hồng ân của Đại Từ Phụ như thế mà vẫn thấy các chơn hồn sa đọa hằng hà, mỗi ngày xem chẳng ngớt, là tại thiếu kém đức tin và lòng trông cậy nơi Thầy. Đó là mấy đạo hữu bị thất thệ.
Em trông thấy bắt đau lòng, phái nữ lại là phần đông hơn hết." [9]
2. Thường tụng kinh Cầu siêu, Di Lạc và làm âm chất:
Tịnh Tâm Xá còn gọi với một tên khác là Nghiệt Cảnh Đài. Đức Quan Âm giải thích danh từ này qua đàn sau:
“ĐẠI mừng các bạn và các chị.
(…), Cát muốn độ nhũ mẫu, phải không ?
Cát bạch: - Dạ phải, (...)
- Bà ở Nghiệt Cảnh Đài. Chỉ có một phương là cầu nguyện Đức Quan Âm thì mới yên phận và cho một lá sớ hữu hình. Và ông Cát cần lập âm chất nơi thế (gian) mà để tên bà, rồi mới đốt thì hiệu nghiệm. Còn phần vô vi thì Đại độ dẫn giùm, vì bà lúc sanh tiền chịu bao điều vay trả nên nay phải cam hận. Thôi, bấy nhiêu, Đại xin kiếu. Thăng.
Tái cầu:
Đại tịnh, có Quan Âm Bồ Tát đến. Dời đàn ra trước Thiên bàn.
Bần Nữ xin chào chư thiện tín.
THI:
Quan môn rạng chiếu bóng cờ Nam ,
Âm đức giồi trau rửa thế phàm;
Bồ liễu dầu cho sương khói đọng,
Tát khô khổ hải cũng thành nam.
Bần Nữ đến để đôi lời cho thiện nam Cát hiểu lẽ huyền vi nơi Lạc Cảnh. Mỗi chơn linh khi đã mãn căn qui hồi Thiên giới đều phải đến nơi Nghiệt Cảnh Đài đặng ôn lại tội phước đã tạo nên. Khi về đến đó rồi thì một mảy gì cũng không thể giấu đặng.Bao nhiêu kiếp đều diễn ra trước mắt, rồi tự mình định lấy phận mình, chớ chẳng ai hành phạt hay thăng thưởng. Đó là Tòa phán xét lương tâm. Ông tòa lại chính là bổn nguyên chơn linh của mình.
Vì cớ cơ thưởng phạt thiêng liêng không một ai có thể kêu rên bởi lẽ bất công hết thảy. Như vậy thì nhũ mẫu của thiện tín cũng ở trong khuôn luật ấy.
Bần Nữ vì cảm thương lòng thành kính của thiện tín mà chỉ dẫn cho đôi điều. Từ đây, thiện tín khá luôn luôn tụng Di Lạc Chơn Kinh cho người, phải luôn tụng Cầu Siêu và Cầu Hồn đặng rửa bớt sự nặng nề cho vong linh. Còn âm chất thì càng nhiều lại càng hay, phương độ rỗi ấy là nhờ nơi lòng hiếu nghĩa của thiện tín mà làm giảm bớt phần nghiệt chướng nơi cõi thiêng liêng cho nhũ mẫu của thiện tín.
Nhưng thiện tín cũng nên biết rằng, khi đã độ rỗi được vong linh kẻ tội lỗi thì âm chất của thiện tín cũng đã sang bớt cho vong linh ấy chút ít rồi. Như vậy, thiện tín cần phải lập công đức thêm đặng đền bù vào chỗ đã mất. Đó là chỉ nói về sự độ rỗi vong linh của kẻ thân thuộc mà thôi.
Chí Thiện Mậu bạch : - (...)
- Phương độ rỗi chắc chắn hơn hết là người sanh tiền phải luôn luôn thành tâm cầu nguyện và giữ vững đức tin, bồi bổ thêm công đức. Thân mẫu của thiện tín đã qua khỏi Ngân Kiều rồi.
Chư thiện khá lưu tâm mà giữ cho tròn âm đức nghe. Bần Nữ kiếu. Thăng.” [10]
Vậy có thể hiểu Địa Ngục theo một trong các nghĩa sau:
. Cõi có tên gọi là: A Tỳ, Âm Ty, Âm Quang, Âm Phủ, Địa Phủ, Diêm Phù, Phong Đô, Thanh Tịnh Đại Hải, v.v...
. Là nơi để cho các chơn hồn giải thân định trí. Đó là "Tịnh Tâm Xá”, là nơi chơn hồn tịnh tâm tự xét mình. Là nơi đệ nhứt sợ. [11]
. Nơi đó còn gọi là Nghiệt Cảnh Đài.
. Là nơi mà các linh hồn bị đọa xuống mấy trái địa cầu âm khí nặng nề để chịu buồn rầu, khổ cực, nhức nhối tâm hồn, xốn xang trí não. Đó là nơi nhân quả, nghiệp chướng, oan gia đi theo mà hành phạt linh hồn. [12]
III. TÓM LẠI
Qua các Thánh Giáo -Thánh Ngôn vừa trích dẫn, chúng ta thấy quan niệm về Địa Ngục của Cao Đài Giáo có khác những quan niệm trước kia.
- A Tỳ - Địa Ngục hay Phong Đô – Địa Phủ không còn được giải thích như là nơi chốn chỉ thực hiện việc hành phạt các vong hồn phạm nhiều tội lỗi ở chốn thế gian.
Mà còn được giải thích đó là Tịnh Tâm Xá, là chốn để các vong hồn tĩnh tâm ôn lại các hành động, lời nói, suy nghĩ trong kiếp đã qua để rồi ăn năn sám hối trước khi đi đầu thai hay được hưởng ân ban thăng tiến tu học thêm, v.v...
- Tu để cứu Cửu Huyền Thất Tổ thoát khỏi Âm Quang, chúng ta cũng nên suy nghĩ theo chiều hướng “phòng ngừa hơn là điều trị”. Lời tâm tình của Đức Cao Thượng Phẩm vào năm 1934 đáng để cho chúng ta suy gẫm luôn:
“Hồi em còn ở thế sức giận của em đến đỗi, nếu em được Thiêng Liêng vị tức cấp, thì có lẽ cây quạt của em đã đưa họ trụm vào Phong Đô không sót một ai.
Nhưng chừng bỏ xác phàm, được nhãn huệ quang rồi, em lại thương đau, thương đớn, dường như sợ cho họ sái đường lạc nẻo, thì phải mất một bạn thiêng liêng rất quí trọng vậy.
Thành thử, phải dìu dắt chìu theo tâm phàm họ cao thấp mà sửa từ bước, độ từ chặng. Mà nếu rủi dìu họ không được, thì phải tận tụy với trách nhiệm làm thế nào cho họ đừng sa đọa Phong Đô, để cầu với Tam Giáo Tòa, cho tái kiếp mà chuộc căn quả.” [13]
THÁNH GIÁO tham khảo [14]
THI
Huỳnh hà lặng lẽ nước thanh bai,
My đãnh Nga San chí phận trai;
Đồng chịu gian lao tân khổ não,
Tử từ hiếu thảo chớ đơn sai.
HỰU
Đơn sai hoằng hoại nghĩa Tam sinh,
Hiếu tử xét suy cố giữ gìn;
Phận đứng hiếu hiền trai lãnh phận,
Gian lao dầu giải đáp ân sinh.
HỰU
Ân sinh oằn oại nghĩa cù lao,
Bảo bố dưỡng sanh sánh núi cao;
Cúc dục trưởng thành đây thủ phận,
Đáp đền sông núi sánh bằng nhau.
Hèn Thánh cúi đầu giờ nay trước điện tiền nơi cảnh Đông Cung, chào chư Thiên Mạng đồng cả lưỡng ban, quí huynh cùng quí tỷ đàn trung đẳng đẳng. May thay! giờ phút nầy gặp gỡ mấy khi. Vậy hạ hèn trên đãi lịnh Phụ Vương Chí Tôn cùng chư tôn Chưởng Giáo Tam Trấn đàn tiền hầu cho Thánh mượn một giờ vắn mà Thánh tỏ lời tâm phúc của Thánh như tích “Thanh Đề cùng Đức Mục Liên” đó vậy chư quý Thiên Tước lưỡng ban. Đây Thánh đê đầu kiếu lỗi. Vậy mời Thiên Ban tọa tịnh mà cho Thánh bảo trợ một chơn linh. Ấy là thân phụ Thánh được hồi lai mà tỏ tường thế sự đó hỡi Thiên Ban. Vậy Thánh xuất đàn mà hộ trợ điển linh. Nhờ Thiên Ban cùng quý huynh tỷ trực tiếp chơn hồn thân phụ. Thánh rất trọng ơn thâm.Tiếp điển:
THI
Nguyễn hồi dương thế tỏ âm hao,
Văn để đôi câu ứa lụy đau;
Cự muội bể trần nay thống thiết,
Nương giờ phưởng phất tỏa thơ trau.
Vậy giờ nay chơn hồn em giáng, nương lằn điển phưởng phất dật dờ mà phân tỏ đôi lời tận tường mọi lẽ gởi lại gia trung. Đây em cúi lạy Tam Giáo Tòa, cùng chào tất cả điện tiền Thiên sắc lưỡng ban, phiền đôi giờ mà cho em phân cạn đôi câu. Bởi vì trần thế vật chất đa đoan, tứ tường ám phủ, làm cho em phải chịu kiếp đọa đày.Nơi hồng trần mê mẩn vui say,
Nay khốn khổ đắng cay biết mấy,
Từ đây em thác rồi mới thấy,
Sự ngục hình nhiều nỗi gian truân,
Nhớ đến đây nước mắt rưng rưng,
Nay biết hối ăn năn chẳng kịp.
Vậy em tỏ bức thơ nầy gởi lại Châu Minh, trước là thăm chú bác cậu dì cùng chư ban cố hữu, huynh tỷ chung đồng. Vậy nhờ tỷ huynh miễn chấp mà tha thứ một đứa em hèn. Đây là kẻ tội nhơn trăm đường lỗi trọng. Khi em ở thế rất muội mê đắm say vật chất. Nay thác rồi hối tâm nào kịp, em nhờ một hiếu tử ngày trước là Nhựt, khi tách cõi trần thì được đắc Thánh ân ban “Huỳnh My” bửu hiệu. Mà nay con hiếu tử dầu dãi gian lao xin phép cùng Tam Giáo Tòa mà mượn hồn em tố trần khi ở thế. Vì em quá phạm tội bị Thiên điều giảm kỷ là một phần còn một phần khổ đọa hiện nay. Nên em là kẻ tội tình, muốn trước bày cho huynh tỷ được biết mà tránh nẻo đường chông, kẻo lạc sai lối khổ như em thì tận đọa A Tỳ. Vậy nay em cúi đầu bày tỏ sự tội lỗi khi thuở sanh tiền.Điều thứ nhứt: - là khinh thị Trời Đất, chê rẻ Phật Tiên, hủy báng tôn giáo. Bán đồ nhi phế, phản bạn khi quân, trái lời thệ hải.
Điều thứ hai: - là tội vong ân tông tổ, quên nghĩa đồng môn. Chẳng đoái tưởng công sanh thành cúc dục mà khinh thị mẹ cha, về tội bất hiếu.
Điều thứ ba: - ỷ thói khôn ngoan, chứa xâu lường của. Ích kỷ hại nhân, làm cho người khóc hận, tội ấy dẫy tràng tự em gây tạo.
Điều thứ tư: - tội về tiền bạc mà che lấp xuyên qua, khinh người đoạt của chẳng kiên. Làm cho mất nghĩa đệ huynh, đó là xuyên tạc đệ huynh, khinh người nào có khác chi khinh Trời.
Điều thứ năm: - là bắt buộc vợ con sát hại sanh vật cho em vui sướng no say. Cùng chẳng cho vợ con đến chùa mà tu hành cải hóa.
Điều thứ sáu: - khinh bỉ người hiền, nhạo báng kẻ tu hành, đó là chê bai Thần Thánh.
Nên nay thác rồi nhìn thấy trăm điều chất chứa khổ đau, chập chồng tội nơi Diêm Địa, Thập Điện khảo tra. Đó là phần lắm nhiều tội lỗi. Nay nhờ con mà nương một làn điển lai tỏ cạn lời nhắn cùng thê nhi tường tận. Còn em đây gởi lời thăm ba anh: Tây, Mau, Giàu. Vậy ba anh giờ phút nầy cũng lấy lượng cao minh, khoan hồng tha thứ lỗi cho em một phần. Chớ em lắm nhiều đoài đoạn khổ lao.
Vậy hiền phụ Minh Linh, nghĩa tử có thương cha trong giờ phút nầy con ráng mà tu hành, cầu siêu thoát hóa cho cậu đó con. Nghe ái nhi phận … Nữa.
Còn hiền phụ tự Đầy bạn ngọc. Nay anh biết hối thức thì sự đã muộn rồi, chỉ cậy đôi lời gởi nhắn cùng hiền phụ với ái nữ Minh Linh. Con vợ ráng tu mà thoát lấy thân, chớ nay phần anh hối hận chẳng kịp thì giờ, nhờ Huỳnh My hiếu tử xin phép Thiên Nhiên cho hồi tỏ cảnh, đặng hầu dương thế biết mà tránh vương khổ đọa, kẻo lạc lầm như anh thì muôn kiếp khó tái lai.
Vậy nầy Nết, cháu ôi! Đây lời chú phán. Cháu gắng tường tri, khi chú đáo ngục hình gặp cha cháu lắm khổ, đồng tội như chú. Cũng là một kẻ chứa xâu ăn đầu, cho vay bạc nợ, vốn một lời mười. Sát hại trâu chó. Khổ ngục hình. Anh Trương Văn Xồi nhắn gởi cùng chú. Nhờ công cháu và má cháu tu hành nên giảm được nhiều tội lỗi, gần ra khỏi cảnh đọa đày. Vậy cháu cố ráng mót bòn âm chất, lập quả bồi công cho cha cháu được sớm siêu thoát tránh khỏi luân hồi đó nghe cháu.
THI BÀI
Hồn phưởng phất náu nương làn điển,
Hiếu tử con trợ luyện nguơn thần;
Đây nương cạn tỏ lời phân,
Châu Minh gởi lại tố trần thăm chung.
Cùng hiền phụ kiết hung bạn nhớ,
Trần Thị Đầy em nhớ ráng tu;
Hầu mau thoát khỏi ngục tù,
Đây anh muội ám, ngút mù mê mang.
Trẻ ái nhi hỡi trang con thảo,
Nghĩa Minh Linh cậu bảo con lo,
Nữa ôi! khuya sớm lần dò,
Tu cầu cho cậu tội to bớt lần.
Chú thăm cháu ân cần hỡi trẻ,
Ve cháu ôi! có lẽ cháu thương;
Chú đây lâm cảnh đoạn trường,
Vì khi ở thế tứ tường đeo quanh.
Đực hỡi cháu! trai lành suy nghĩ,
Gắng công phu lập chí tu hành;
Chớ đừng duôi dễ bất thành,
Chữ tu quí nhứt Đạo lành Trời ban.
Thuận hỡi cháu phận trang nam tử,
Chú khuyên con ráng giữ cho cần;
Lánh đời thế sự phù vân,
Thoát lao khổ đọa trăm phần đáng lo.
Thảo hỡi cháu! ráng dò bể thẳm,
Chú nhắc lo ráng gẫm mới tường;
Trai lành nương bước muối tương,
Đạo mầu quí giá trăm đường cháu ôi!
Một gái lành nấu sôi tứ đức,
Nết trẻ toan bền sức đạo tâm;
Cháu ôi! chú tỏ chỉ chăm,
Nương đường chánh giáo cao thâm bí huyền.
Na hỡi cháu! gái hiền xét phận,
Thành cháu lo, hờ hẫng chớ nên;
Chú khuyên mỗi cháu vững bền,
Chí công mài sắt đắp nền cù lao.
Nhành phận gái cháu trau cho vẹn,
Dương liễu bồ chẳng thẹn đâu con;
Chú khuyên mỗi cháu lo tròn,
Cù lao dưỡng dục mót bòn chớ vong.
Yên hỡi cháu! đền xong nghĩa cả,
Chí trai lành vàng đá chớ lơi;
Dượng nay gởi nhắn đôi lời,
Cháu trai xét phận chớ dời thối tâm.
Hứa nầy cháu! bền tâm vững chí,
Phận trai lành chăm chỉ ráng trau;
Dượng nay khốn khổ biết bao,
Gởi thăm con trẻ cùng nhau cho đồng.
Diệp nầy cháu! phải phòng tua sửa,
Chí nam nhi chớ mựa dễ hờn;
Dượng đây nhắc trẻ đòi cơn,
Cháu lo vẹn phận đáp ơn não nồng.
Ba phận gái tang bồng hỡi cháu!
Dượng nhắc lo chữ Đạo bước đường;
Gái lành trẻ gắng náo nương,
Thi khoa đạo đức biểu dương tên bày.
Sương hỡi cháu! đây ngày cùn cuối,
Con gắng lo cặm cụi bước qua;
Dượng nay biết khổ đã qua,
Hối tâm nào kịp nên sa ngục hình.
Lời gởi lại tận tình chung thỉ,
Nhờ nơi con trực chỉ giáng lai;
Lược so khổ não vắn dài,
Thôi nay trở lại Diêm đài mới an.
Trẻ Huỳnh My dắt đàng chỉ đáo,
Phép Thiên Tòa mới tháo ngục oan;
Thôi thôi tả hữu trung đàn,
Kiếu từ Thiên Tước dặm ngàn dõi theo.(…)
Huỳnh My, Hèn Thánh cúi chào cả đàn tiền. Vậy nhờ chư huynh tỷ kiểm duyệt, bình lại giùm đây. Vì thân phụ Hèn Thánh lao thần nhọc trí câu văn từ còn thiếu sót. Nhờ quí huynh tỷ sửa chữa.Vậy giờ nay Hèn Thánh cuối chào, tạ chúc Thiên ban đáp ân khổ nhọc cùng Hèn Thánh. Vậy có Tam Trấn lai lâm, Thiên Ban khá tiếp lịnh, Hèn Thánh hầu tiếp giá. Kiếu.
--------------------------------------------------------------------------
[1] Thánh Ngôn Sưu Tập I-Tây Ninh số 12 - Nguyễn Văn Hồng.
Đàn ngày 25.8 Bính Dần (01.10.1926)
[2] Thánh Ngôn Hiệp Tuyển 2 xb 1966 trang 85, Tòa Thánh Tây Ninh (10.1932)
[3] Đức Chí Tôn, Trước Tiết Tàng Thơ - Tân Uyên 19.03 Quí Dậu (13.4.1933)
[4] Hộ Pháp Đường 04.5 Bính Tý (22.6.1936)
[5] Thánh Ngôn Sưu Tập II- Tây Ninh số 22, Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng.
Hộ Pháp Đường 02.12 Ất Hợi (27.12.1935), Phò Loan: Hộ Pháp - Tiếp Đạo
[6] Đã liễu Đạo và nhập cảnh thiêng liêng hằng sống
[7] Sư phụ đây là Đức Hộ Pháp
[8] Phối Thánh Bùi Ái Thoại, Thánh Ngôn Sưu Tập III, số 30, Nguyễn Vă n Hồng Báo Ân Từ 07.11 Mậu Tý (07.12.1948). Phò loan: Hộ Pháp – Khai Pháp.
[9] Thánh Ngôn Hiệp Tuyển 2 xuất bản 1966 trang 91 (09.4 Giáp Tuất 1934).
[10] Thánh Ngôn Sưu Tập III – Tây Ninh số 67, Thanh Trước Đàn 30.3 Tân Mão, (05.5.1951). Phò loan: Giáo Hữu Thượng Khai Thanh – Minh Liêm.
[11] Thánh Ngôn Hiệp Tuyển 2 xuất bản 1966 trang 85 và 91.
[12] Đại Thừa Chơn Giáo trang 177.
[13] Đức Cao Thượng Phẩm, Thánh Ngôn Hiệp Tuyển 2 trang 93, 15.7 Giáp Tuất (1934).
[14] Đông Cung Bạch Long, Tý thời 22.3 Quý Tỵ (1953).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét