BÁT BỬU
(Trích Kinh Tiểu Thừa Chơn Giáo)
HIẾU, ĐỂ, TRUNG, TÍN
Tý thời 20 tháng 8 năm Canh Tý.
THI
TÔN nghiêm truyền để bóng nhân hoàng,
LINH diệu xưa nay chẳng thế an;
THÁNH hóa Tam Kỳ soi đuốc ngọc,
ĐỨC thành chung hội tiếp cao ban.
TÔN LINH THÁNH ĐỨC, Bổn Thánh chào mừng chư chức sắc Thiên phong và toàn thể đạo tâm đẳng đẳng. Giờ nay Bổn Thánh phụng chỉ DIÊU CUNG lâm đàn để góp phần xây dựng phẩm TIỂU THỪA CHƠN GIÁO. Đề tài Bổn Thánh sắp giải ra đây là "Bát Bửu" của các Đấng Chơn hồn đã thọ lãnh nơi THƯỢNG ĐẾ từ lúc sơ khai nhân loại. Đó là tám món báu để chư linh hồn giữ gìn trau luyện cái phẩm Đạo vẹn toàn, nhưng vì trường đời tập nhiễm, vật dục dắt lần làm cho các món báu đều thất lạc. Vậy, giờ nay Bổn Thánh sẽ diễn đạt về "Hiếu, Để, Trung, Tín" và đàn mai sẽ có vị Thánh tiếp giảng về "Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ".
Sở dĩ con người xa lần đạo đức, mãi chịu trầm luân đều do sự biến động cõi lòng, xa rời Bát Bửu. Hôm nay, Đạo trường rộng mở báu pháp tiếp trao. Vậy tất cả hãy thu hồi trọn vẹn để bảo đảm cho công tu trong thời kỳ đại ân xá này.
THI BÀI
BÀI THỨ CHÍN: tiếp đề Bát Bửu,
Tám báu truyền qui tựu nhơn căn;
Ấy là lẽ sống lòng hằng,
Hóa Công ban đủ cơ năng phổ đồng.
Đem khái niệm Tây Đông truyền lại,
Đều một đường quảng đại đây thôi;
Xưa nay thừa tiếp bao hồi,
Hiển u chỉ tại dòng trôi tục đời.
Thật lẽ sống hợp thời ai cũng,
"Hiếu" để mà thừa phụng nghĩa thân;
Nuôi con đợi thuở quá tuần,
Sương mai nhờ bóng tử thần tựa nương.
Hiếu đạo vốn cang thường số một,
Luận cho thông, cho tột lẽ mầu;
Để đền đáp lại ân sâu,
Công sanh, công dưỡng dãi dầu biết bao.
Việc thảo thân đi vào chi tiết,
Đủ hai phần thuần khiết mới nên;
Tinh thần vật chất vững bền,
Phú, bần cảnh ngộ đối trên lập trường.
Ngày tiếp xử kính thương trọn cả,
Bữa uống ăn cung hạ bảo toàn;
Nhỏ còn đi học phải ngoan,
Học cho thành đạt mở mang nghiệp nhà.
Kịp lớn khôn lần qua nhiệm vụ,
Nuôi mẹ cha chí thú đêm ngày;
Noi gương Thánh triết thảo ngay,
Nhị Thập Tứ Hiếu giải bày tâm cang.
Đem thân sống bảo toàn hiếu đạo,
Nguyễn Ánh xưa đuổi báo cứu cha;
Mạch lòng chảy suốt phu bì,
Tử sanh nguyện đáp ân vì tạo đoan.
Trước Thiên trách mở mang trần hạ,
Ích lợi chung cho cả quần sanh;
Kìa gương KHỔNG THÁNH lưu hành,
Suốt đời truyền Đạo định thành hiếu thân.
Nếp gia thinh muôn tầng không sánh,
Dễ mang câu bất chánh bất nhân;
Nếu mà cha mẹ bần thần,
Đâu còn hiếu đạo, nghĩa thân trọn gìn.
Học thấu đáo tường minh yếu lý,
Nữ như nam nghiệm kỹ suy cùng;
Hoàn thành nhiệm vụ thủy chung,
Hiếu mà giữ trọn mới tùng nghĩa phương.
Người thế gian phải tường chữ hiếu,
Nơi Đạo tràng mở khiếu lên cao;
Hiếu thân truyền cảm rạc rào,
Ấy đường chánh đại Trời trao lẽ thường.
"Để" là thuận lập trường hòa ái,
Cùng đệ huynh phải trái luận bàn;
Thuận rồi rõ lý vinh quang,
Phước nhà đầm ấm cơ hàn có nhau.
Trong gia đình đượm màu son sắt,
Giữa nhân quần siết chặt tình thương;
Thuận hiền tiếp mối chơn dương,
Hỏa tình khỏi động nhiễu nhương đêm ngày.
"Để" không phải xuôi tay chìu quấy,
Thuận đây là giữ lấy ôn lương;
Quảng hành độ hướng khai trương,
Từ trong nghịch cảnh mở đường thuận thân.
Bởi thế nên người cần chữ để,
Việc xử giao mới thể hảo toàn;
Đạo đời tương đắc hòa an,
Xác hồn trực tiếp bên màn thiên lương.
"Trung" là ngay can trường lập chí,
Ngay thẳng lòng nuôi kỹ lý chân;
Đức Trung, ai cũng thấy cần,
Nhưng vì bả lợi khó gần được Trung.
Trung ấy được thủy chung như nhứt,
Trung để cho trọn chức vụ người;
Trung thành đượm vẻ thắm tươi,
Quốc dân niềm nở vui cười thân yêu.
Xưa Bình Trọng không xiêu Thần sắc,
Cùng Triệu, Trưng cân quắc so bì;
Cam La còn tiếng sử ghi,
Cái gương trung, nghĩa duy trì muôn năm.
Trung đối cảnh suy tầm cội rễ,
Trung vì dân há dễ vì ai;
Xưa nay biết mấy anh tài,
Giúp người sai Đạo bỏ hoài công phu.
Chữ Trung để đền bù nghĩa cả,
Đạo phu thê như lá với cành;
Trọn lời nguyện hiệp duyên lành,
Vợ hiền tiếng tốt mới thành tiết trung.
Lời can gián thẳng dùn phải cách,
Cho người trên phân tách hiểu rành;
Tránh xa tội lỗi hư danh,
Ấy trung biểu lộ thực hành dạ ngay.
Trong cửa Đạo càng dày đức cả,
Đối Hồn Thiêng như cá nước hồ;
Phỏng mà nắng hạn nước khô,
Nước khô cá phải lần vô cảnh cùng.
Đây chữ Trung đem dùng thực tại,
Mỗi nhơn sanh còn phải học hành;
Để cho thể ngọc long lanh,
Đạo nhà tô điểm, trung thành lý đương.
Trung tóm lại là phương hướng thẳng,
Người có trung mới đặng toàn danh;
Chữ trung đi với chữ thành,
Trung thành tươi đẹp như tranh trong tường.
"Tín" là tin, tin thường hay mất,
Vì người nay chưa thật lòng tin;
Đúng ra tin quý vô cùng,
Thánh hiền còn để đức tin lâu dài.
Tín đâu có lời sai qua lại,
Tín nơi mình nói phải làm ngay;
Không ham danh lợi tiền tài,
Để cho thất tín ngày mai khó tìm.
Mình trọn tin, tin thâm người khác,
Có tin người mới đạt lòng nhau;
Tạo nên truyền cảm sang giàu,
Giữa người chung sống một màu thiệt ngay.
Chữ Tín ấy sao hay ho quá,
Thu phục rồi chí cả lên cao;
Vì rằng tín thật dồi dào,
Dễ ai đã dám xen vào thất ngôn.
Nên chữ Tín bảo tồn thân lập,
Muốn lập thân phải tập tín thành;
Một đời chân thật nên danh,
Nghiêm trang thể cách thông hành gần xa.
Trọng chữ Tín đời ta tươi đẹp,
Lời thốt ra như chép ghi lòng;
Dầu cho muôn lượng vàng rồng.
Không mua được cái "ừ" xong đã rồi.
Bởi đời nay lôi thôi quá lẽ,
Trong một giờ chia sẻ nhiều nơi;
Nói ra ít nhớ lại lời,
Vui, buồn, sai khiến quảng đời éo le.
Nạn thất tín cười khè bên khóc,
Giữa lớp người hằn hộc giả tâm;
Lưỡi môi đưa đẩy lầm thầm,
Mà lòng chẳng thiệt, mưu tầm kế gian.
Nay chữ Tín đạo tràng đem lại,
Để cùng nhau điểm sái tâm linh;
Dầu cho người có giả tình,
Ta đem chữ Tín mà chinh phục đời.
Quyết cho đặng sáng ngời chữ Tín,
Có tin rồi mới định phẩm cao;
Phẩm đời đã trọn thân giao,
Phẩm Tiên tiếp mối bước vào thiền tâm.
Bài giảng Hiếu, Để, Trung, Tín, đến đây đã hết, vậy Bổn Thánh chào tất cả đàn tiền. Thăng.BÁT BỬU (Tiếp theo)
LỄ, NGHĨA, LIÊM, SỈ
Tý thời 21-8 năm Canh Tý.
THI
DIỆU giải cho nhau một cõi lòng,
LINH truyền cao độ pháp tinh thông;
THÁNH nhơn khai hóa cơ thường lạc,
ĐỨC hiệp hòa minh lý chánh tông.
DIỆU LINH THÁNH ĐỨC thân chào chư chức sắc đàn tiền đạo tâm nam nữ. Giờ nay, TÔN THÁNH thừa lịnh tiếp dạy bài BÁT BỬU về LỄ, NGHĨA, LIÊM, SỈ. Vậy đàn tiền tịnh tọa.
THI BÀI
"Lễ" là cái phương châm tiếp xử,
Cho thế gian vinh dự sống đời;
Giữa người hội diện chiều mơi,
Tôn ty phải cách sáng ngời nhơn phong.
Lý trật tự hợp đồng đại thể,
Sống điều hòa do lễ mà ra;
Lễ nghi vốn thiệt báu nhà,
Đông Tây hảo hiệp đậm đà sắc giao.
Người có lễ tăng cao phẩm giá,
Lễ trọng người, người trả lễ an;
Kính nhơn, nhơn kính rõ ràng,
Tùy cơ thủ xử thuận đàng dưới trên.
Lễ giữ Đạo không quên sùng bái,
Thờ mẹ cha lễ giải trọng tôn;
Đệ huynh thừa tiếp ôn tồn,
Phu thê tùy xướng ngữ ngôn thuận hiền.
Ngoài xã hội, lễ yên định hướng,
Việc tiếp giao lễ trưởng đức thành;
Xưa nay mấy bực trứ danh,
Sống trong lễ nghĩa phân ranh tục đời
Nếu thiếu lễ Phật Trời chẳng kính,
Chẳng tôn ti liều lĩnh sang ngang,
Khác nào bánh vẽ trên bàn;
Đói ăn không được, dở dang thay là.
Người đời nay bôn ba vật chất,
Lễ báu truyền xem mất phần đông;
Lại cho phép Đạo không thông,
Đưa người vào chỗ cuồng ngông thấp hèn.
Cũng bởi thế đua chen sôi nổi,
Mất lịch xinh giữa hội cao đàm;
Múa men nóng nẩy sân tham,
Dung nghi hỗn độn nâu chàm sắc pha.
Nay yếu lý truyền ra dạy kỹ,
Lễ trước tiên tỷ mỷ tập tành;
Tề gia, xử thế hội thành,
Là phần căn bản chúng sanh phải làm.
Đem chữ lễ luận đàm mọi lẽ,
Từng cơ vi tiết thể ngoài lòng;
Cho nhau tất cả thuộc lòng,
Nhứt ngôn, nhứt động hợp dòng lễ nghi.
"Nghĩa" vụ ấy tường tri yếu giải,
Nghĩa đây là việc phải cần làm;
Mới tròn trách nhiệm thế gian,
Tinh thần nghĩa khí dẫn đàng lối chung.
Người thượng nghĩa biết dùng sức mạnh,
Biết đem thân trước cảnh xâm lăng;
Ra tay giúp kẻ yếu hèn,
Làm nên việc nghĩa so bằng vàng muôn.
Vợ biết nghĩa không buồn tủi phận,
Trước tình nhà lận đận khổ đau;
Bạn bè chẳng kể sang giàu,
Nghĩa hành chung thủy có nhau buổi cùng.
Nghĩa đượm cả hình dung thần sắc,
Cho thế gian siết chặt niềm thân;
Xưa nay nghĩa trọng vô ngần,
Tùy thời sử dụng nghĩa lần hiện sanh.
Bởi thế nên, nghĩa thành đại thế,
Người sanh ra nghĩa để sống đời;
Nghĩa làm nhiệm vụ chiều mơi,
Nghĩa trong chí cả giúp người nên danh.
Người thiếu nghĩa như tranh thiếu cảnh,
Chẳng vị tha chỉ lãnh phần mình;
Thiệt là mờ mịt nan minh,
Quên Thầy, quên bạn, quên tình cha con.
Thử xét nay nghĩa còn hay mất,
Nếu nghĩa đồng đời thật tốt thay;
Hay là chỉ ở bên ngoài,
Mà lòng nhợt nhạt mặc ai nghĩa tình.
Đây trường Đạo khai minh đại thể,
Truyền cho nhau góp để nghĩa nồng;
Trong ngày lập chí đề công,
Mở mang phước thiện gọi lòng phát sanh.
Dạy cho nhau học thành nghĩa cả,
Giữa Đạo nhà một dạ thương yêu;
Đệ huynh lớn nhỏ dắt dìu,
Giúp vùa đạm bạc cao nêu tinh thần.
Làm được nghĩa trọn phần nhơn phẩm,
Nghĩa có làm mới ấm hòa phong;
Mới nêu danh thể cao tông,
Còn ngày dự thưởng phước hồng ân Thiên.
"Liêm" tận giải mối giềng thanh bạch,
Liêm suốt đời trong sạch không tham;
Tánh liêm ai cũng muốn làm,
Ngặt vì bả lợi còn ham khó thành.
Làm được liêm, thanh danh rạng tiếng,
Liêm giữ tròn phát triển lòng nhân;
Xưa kia mấy bực Thánh, Thần,
Một đời liêm khiết trong ngần sáng soi.
Đứng trước cảnh vàng thoi bạc nén,
Lòng thản nhiên mới vẹn hiếu trung;
Sống trong quyền tước nói chung,
Chữ liêm thiệt quý vô cùng khó mua.
Liêm ví tợ lá bùa hộ mạng,
Người có liêm mới hản là Thiên;
Xưa kia có Lỗ Trọng Liêng,
Không dùng của Lễ định yên lòng người.
Liêm tư chất vốn Trời ban sẵn,
Cho thế gian hưởng đặng thanh bình;
Ở ăn là việc thường tình,
Liêm không buộc lận giữ mình phần hơn.
Xét đời nay lòng nhơn đã thiếu,
Nên tiết liêm khó hiểu được rành;
Tưởng rằng sống để cạnh tranh,
Thua hơn quyền tước đủ vành tham gian.
Bởi thiếu liêm, người toan làm dữ,
Sương hơi mồi chẳng cứ lòng nhân;
Muốn cho ổn định cuộc trần,
Chữ liêm truyền để đôi vần thô sơ.
Trong cửa Đạo tôn thờ đại nghĩa,
Quyết từ nay gieo tỉa giống lành;
Tu thân đề khởi thực hành,
Cho liêm đức sáng truyền thành giác linh.
"Sỉ" là hổ, hổ mình quấy quá,
Biết hổ hem chơn giả mới rành;
Hổ vì chưa trọn đức lành,
Chưa thông đạo lý, chưa thành lương tri.
Thiếu thảo thân so bì tủi nhục,
Mất thuận hòa một khúc càng đau;
Chưa trung dạ héo gan xào,
Một lời thất tín trước sau hổ thầm.
Lễ chẳng trọn trầm ngâm thô bỉ,
Nghĩa chưa thành khắc kỷ xấu xa;
Liêm còn ẩn ánh lòng ta,
Sỉ đời thấp kém khó mà nên thân.
Người biết sỉ học lần tiến hóa,
Kẻ không ngơ như đã mất hồn;
Đường đời bao lớp dại khôn,
Nghiệm suy cho rõ bảo tồn lương năng.
Đạo luận giải sỉ tăng cao độ,
Tu luyện nên khỏi hổ công truyền;
Lý Trời đem lại cho nguyên,
Trong ngày mẫn cán thường xuyên trau giồi.
Tám báu linh thu hồi toàn diện,
Làm pháp môn vận chuyển linh căn;
Noi theo đại lộ hóa hoằng,
Theo nguồn quang tuyến huệ đăng sưởi hồn.
Mong sao tất cả cao tôn.
THI
Cao tôn phép báu giải oan khiên,
Thường bữa trau giồi chí nhẫn kiên;
Hiếu, Để gia phong tô đậm nét,
Tín, Trung, hoạt cảnh điểm thêm duyên.
Lễ nghi chỉnh lại đời thô nghịch,
Liêm, Sỉ, thâu về khí hạo nhiên;
Cho rõ Kỳ Ba Trời cứu thế,
Định an sanh chúng lý công truyền.