TAM QUY, NGŨ GIỚI
(Trích Thánh Giáo Sưu Tập)
Cõi thế THÁI hôm mơi phải rã,
Cảnh nhơn tình THƯỢNG hạ mấy ngày;
Muốn đời ÐẠO đức lâu dài,
Trò tua TỔ chức dồi mài công phu.
Ðây đến sự học tu ở thế,
Cựu luật điều chẳng phế, phải hành;
Khi xưa Thánh Chúa giáng sanh,
Cũng khuyên thế tục chí thành noi theo:
TAM QUI, NGŨ GIỚI,
TAM NGUƠN, NGŨ HÀNH,
TAM CANG, NGŨ THƯỜNG.
Tam Bửu dạy trò gieo Thánh Ðức,
Tam Qui xưa điều luật đành rành;
Qui Y Phật dạy chí thành,
Tiên truyền gìn giữ Nguơn Thần chớ xao.
Thánh giáo dạy một màu thờ Chúa,
Dầu phải thân rìu búa chớ từ;
Thành danh trung nghĩa khắc khư,
Vì thương đồng loại cũng như thương mình.
Qui Y Pháp chí linh phép nhiệm,
Gió cùng mây ai kiếm cội nguồn?
Huyền vi Tạo Hóa có luôn,
Phép Trời trò phải lo bươn kẻo chầy.
Tiên Giáo dạy Khí gầy đức tánh,
Rán gìn lòng khí mạch qui căn;
Thánh truyền hiếu thảo khôn ngằn,
Cha sanh mẹ dưỡng mấy trăng nặng nề.
Ơn Phụ Mẫu sánh bề sơn hải,
Công sanh thành nuôi dạy lớn khôn;
Ngày nay xác đã hiệp hồn,
Làm con phải nhớ vong tồn chớ sai.
Qui Y Tăng Phật đài Thánh tự,
Nghĩa linh căn gìn giữ chớ xao;
Tu tâm luyện tánh chí cao,
Xá Lợi ứng hóa người mau gội nhuần.
Tiên chỉ rằng: Nguơn Tinh là gốc,
Giữ kỹ càng mới học phép Tiên;
Thánh xưa còn để rọi truyền,
Phu Phụ hòa hảo nhơn duyên đặng thành.
Ðức Tống Hoằng khó tranh nghĩa nặng,
Sang cả mà lòng thẳng vợ hiền;
Không vì giàu có mà nghiêng,
Trò nay cũng ráng tập chuyên như người.
Luyện đức tánh vẹn mười chẳng sái,
Hễ ở trần nhơn loại phục ngôi;
Sửa đời phong bại tục tồi,
Tân dân minh đức qui hồi Thượng Nguơn.
Rằng đắc quả linh đơn chiếm bảng,
Thoát sanh hồn bỉ ngạn ngao du;
Thầy thương chỉ vẹt ngút mù,
Xưa nay Phật Thánh Tiên tu phép nào?
Trò có thấy Phật cao bất hiếu?
Hay là Tiên danh hiệu bất trung?
Muốn nên phải xét cho cùng,
Nhập thiền suy nghĩ mà dùng phép cao.
Ngũ Hành chuyển ba đào sóng dậy,
Trò phải tường che đậy hằng ngày;
Một đừng sát vật hại ai,
Sát mạng thường mạng xưa nay đã nhiều.
Loài máy cựa ấp yêu sự sống,
Cũng như người chớ vọng sát sanh;
Ngọn rau vô tội chớ hành,
Không ăn bao nở dạ đành chẳng thương!
Nhơn giữ vững bước đường ái chủng,
Vạn sanh linh trọng dụng chẳng chê;
Thương người đau khổ tư bề,
Thương người đói khó thảm thê ngoài đường.
Giữ vẹn vẻ lòng thương vạn loại,
Thì linh Tâm định lại từ bi;
Nghe Thầy giải đến thứ nhì:
Của người đừng có vân vi nơi lòng.
Muốn sanh quấy phải phòng sửa quấy,
Nghĩa sao đành lòng lấy vô can?
Chí công sửa tánh vững vàng,
Thì yên lòng dục tạng Can đã thành.
Thứ ba Lễ dạy rành con hiểu,
Chớ tà dâm phá khiếu quang minh;
Sửa cho ngay thẳng thật tình,
Vợ người cũng tỉ vợ mình chớ sai.
Nếu giữ vẹn Tinh sinh ra Khí,
Nguơn tạng Tì vẹn thủy hỏa hầu;
Thứ tư: Thầy dặn cạn sâu,
Chẳng nên uống rượu chớ âu giận người.
Rượu là nóng đủ mười mạnh bạo,
Uống vô rồi hết thảo hết trung;
Ðệ huynh phải vẹn thủy chung,
Trí thành Phế vẹn bao dung lỗi người,
Thứ năm: Thầy dạy bày đủ lẽ:
Chớ sai lời chẳng vẽ nhiều lòng;
Chí thành tâm thật là xong,
Tín ngay chẳng bợn xử lòng nhiễu nhương.
Tình liên hữu yêu thương một dạ,
Giữ vẹn hòa chớ khá lãng xao;
Hễ gìn chín chắn một màu,
Tạng Thận định đạt chẳng xao lậu mà!
Diệt phàm tánh lánh xa sắc dục,
Bỏ tà dâm un đúc tinh thần;
Lời vàng Thầy đã tỏ phân,
Trò tua nghe thửa khổ thân nâu sòng.
Khuyên trò phải sửa lòng ngay thảo,
Chiếu nương theo Tam Giáo dạy truyền,
Lần đi đạt đến bí truyền,
Hồi quang phản chiếu Ðạo truyền linh tâm.
Hôm sớm lo phù âm mộc dục,
Giữ đừng cho một bợn nhiễm thâm;
Thận thuộc thủy, hỏa thuộc tâm,
Kim mộc chớ trễ lạc lầm mà nguy.
Thầy chỉ sơ lần đi thấu đáo,
Nhơn đạo tròn rõ Ðạo Vô Vi;
Trò ôi rán chí tu trì,
Nhập định Thầy chỉ huyền vi khó nào!
Tại trò chẳng giồi trau phàm tánh,
Tại trò không xa lánh bốn rào;
Trò biết thấp, Thầy truyền cao,
Trò không rõ lý làm sao đặng thành?
Muốn thiên lý chớ tranh nhơn dục,
Muốn cảnh nhàn cõi tục phân ranh;
Chờ khi Tam Giáo luật hành,
Phải lo bổn phận tu hành nghe con!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét