Thứ Bảy, 18 tháng 6, 2011

Không có gì là rác cả


Không có gì là rác cả

Sống sót trở về sau chiến tranh tàn khốc giữa thập niên bốn mươi, Soko Morinaga tìm về căn nhà cũ, trực diện với những khó khăn và mất mát tận cùng của đời người. Cha mẹ không còn, anh chị em phân tán, nhà cửa, tiền bạc bị tịch thu. Ông cố ngoi lên bằng ý chí trở lại học đường nhưng đành chào thua vì cuộc vật lộn cam go, có khi bao tử thường xuyên lên tiếng kêu khóc. Giữa quạnh hiu đổ nát cả thân và tâm, một sự mầu nhiệm kỳ diệu nào đó đã dẫn bước chân vô định của Soko tới trước cửa chùa Daishuin ở Tokyo.
Ngước nhìn mái chùa rêu phong, lưỡng lự đôi ba phút rồi Soko mạnh dạn gõ cửa. Người mở cửa chính là Đại sư Zuigan Goto. Soko ngỏ lời xin được đại sư thâu nhận làm đệ tử. Đại sư chỉ hỏi một câu duy nhất:
- Ngươi tin ta chứ? Nếu không tin ta thì có ở đây bao lâu cũng chẳng học được gì, phí công ta thôi.
Soko trả lời:
- Con xin hết lòng tin tưởng.
Đại sư mở rộng cửa, lạnh lùng truyền:
- Theo ta. 
Soko líu ríu theo vào. Tới góc sân, đại sư chỉ cây chổi tre, ra lệnh: 
- Quét dọn vườn.
Trước khi cầm chổi, Soko quỳ xuống bái tạ đại sư đã thâu nhận mình.
Công việc quét vườn thì có chi là khó, Soko hăng hái quét... quét… và quét. Không bao lâu đã gom được đống rác cao nghệu đầy đất, sỏi, đá vụn và lá khô. Dừng chổi, Soko lễ phép hỏi:
- Bạch thầy, con phải bỏ đống rác này đi đâu ạ? 
Bất ngờ, đại sư quát lên:
- Rác! ngươi nói gì? Không có gì là rác cả!
Soko ngẩn ngơ nhìn đống chiến lợi phẩm, không hiểu, đây không là rác thì là gì? Còn đang lúng túng thì đại sư lại bảo: 
- Vào nhà kho kia lấy cái bao lớn ra đây.
Khi Soko tìm được cái bao mang ra thì thấy đại sư đang dùng hai tay, gạt đám lá khô sang một bên. Ông lại bảo:
- Mở rộng miệng bao ra.
Soko tuân lời, lẳng lặng theo dõi thầy đại sư quơ từng ôm lá, bỏ vào bao, thỉnh thoảng lại giậm giậm cho lá xẹp xuống. Cuối cùng, những lá khô trong đống rác đã được nhồi vào bao, cột lại. Soko lại nghe lệnh truyền:
- Đem bao lá này vào nhà kho, để dành đun nước tắm. 
Vừa vác bao lá trên vai, Soko vừa nghĩ:
- Còn đống đất đá, không phải rác thì dọn đi đâu? 
Ấy thế mà khi ở nhà kho ra, Soko thấy đại sư đang lượm những viên sỏi, đá vụn ra. Trước vẻ ngẩn ngơ của Soko, ông vừa hỏi, vừa sai: 
- Có thấy hàng hiên ngay dưới máng xối kia không? Có thấy những chỗ bị nước mưa xoáy lồi lõm không? Đem những sỏi, đá vụn này trám vào những chỗ đó. 
Soko vừa làm, vừa thán phục thầy mình, vì quả thật, sau khi trám, không những chỗ lồi lõm bằng phẳng mà còn đẹp hẳn lên nữa. 
Bây giờ, đống rác (theo Soko) chỉ còn lại đất và rêu. Lần này thì chắc chắn phải hốt, đổ đi rồi. Nhưng kinh ngạc biết bao khi Soko quay lại sân, thấy thầy mình thong thả nhặt từng miếng đất, từng tảng rêu trên tay, rồi chậm rãi nhìn quanh, tìm những khe tường nứt, những chỗ lõm nhỏ trên mặt đất, từ tốn trám vào.
Bây giờ thì đống rác không còn đó. Nhưng cũng không phải là vật phế thải vô dụng gom quẳng đi đâu. Mỗi loại rác, nếu biết tận dụng, sẽ lại trở thành hữu ích.
“Không có gì là rác cả” là bài học đầu tiên đại sư Zuigan Goto dạy cho người đệ tử vừa thâu nhận, sau này chính là Thiền sư Soko Morinaga nổi tiếng của xứ Phù Tang. Viện trưởng Đại học Hanazono, thuộc tông Lâm Tế Nhật Bản.
“Không có gì là rác cả!” tuy đơn giản mà bao hàm một thông điệp về triết lý duyên khởi. Trong rác có hoa và trong hoa có rác, rác chính là hoa và hoa chính là rác. Nhờ thấy được sự thật này nên không hề có sự loại bỏ, đối kháng và mâu thuẫn mà hoàn toàn nhuần nhuyễn, tùy thuận, các pháp cùng nương vào nhau để tồn tại và phát triển.
Hãy nhìn thật kỹ, thật sâu sắc vào những bất đồng, những việc không như ý và tất cả những gì được gọi là xấu xa, đáng loại trừ, vứt bỏ… “Nhìn” cho đến khi nào nhận ra “Không có gì là rác cả!” để ôm ấp, bao dung và tận dụng hết thảy thì cuộc sống này đẹp biết dường nào!
Nguồn: Vườn Thiền

Thứ Sáu, 17 tháng 6, 2011

Những bài thuốc quý trong dân gian


NHỮNG BÀI THUỐC QUÝ TRONG DÂN GIAN 

Quý anh chị em vào đường link sau để cùng tham khảo những bài thuốc quý trong dân gian do Hòa Thượng Thích Giác Nhiên kết tập:



Bản thân Chánh Tuân cũng đã từng được biết qua sự hiệu nghiệm của một vài bài thuốc trong tổng số các bài thuốc dân gian được kết tập nói trên. Do vậy Chánh Tuân nghĩ rằng những bài thuốc dân gian này quý anh chị em có thể tham khảo và thử nghiệm.


Ghi chú: Nếu có bài thuốc nào mà quý anh chị em đọc nhưng không thể hiểu rõ nội dung thì quý anh chị em có thể viết lại nguyên văn nội dung bài thuốc đó rồi đem ra các nhà thuốc Đông Y để nhờ họ chỉ giúp.


Chánh Tuân.

Thứ Năm, 16 tháng 6, 2011

Kiếp phù sinh và nhân ngã


KIẾP PHÙ SINH VÀ NHÂN NGÃ
TRÚC LÂM THIỀN ĐIỆN 
Ngọ thời 13 tháng 4 Đinh Mùi (21-5 -1967)


Kệ viết:
HỘ điển đồng loan tiếp Phật Vương,
PHÁP môn sẽ được giải tinh tường;
GIÀ hay trẻ nếu không tu tỉnh,
LAM hắc bạch huỳnh cũng chuyển luân.
       HỘ PHÁP GIÀ LAM, Ta chào chư Thiên sắc, chào chư hiền đồ thiện nam tín nữ.
       Vâng lịnh báo đàn, chư Thiên sắc cùng toàn thể thành tâm nghinh tiếp DI LẠC THIÊN TÔN. Chào chung, Ta xin xuất ngoại hộ đàn, lui bước…
Tiếp điển:
Kệ viết:
Soi sáng hồng trần ngọn đuốc thiêng,
Cho đời thấy rõ mối QUI NGUYÊN;
Tu thân tự giác trừ tam độc,
Chánh niệm độ tha khởi vạn duyên.
Vượt khỏi sông mê về cảnh Phật,
Thoát ngoài bể tục đến nhà Tiên;
Năm chi mười phái rồi sau cũng,
Tóm lại càn khôn một chủ quyền.
       CHỦ NHƠN HOÀNG CỰC DI LẠC THIÊN TÔN, Bần Tăng chào mừng chư Thiên sắc, chư hiền đồ thiện tín đẳng đẳng.
Bần Tăng đến trần gian giờ này để chứng lòng thành niệm của thiện tín môn đồ sở tại Trúc Lâm Thiền Điện cùng toàn tỉnh Vĩnh Long.
      Nhơn dịp này, ngày lễ Phật Đản của Giáo Chủ Tây Phương, Bần Tăng giải thích vấn đề “NHÂN NGÔ của người tu trong chơn lý Đại Đạo. Miễn lễ đàn trung đồng an tọa đẳng đẳng.
      Này chư hiền đồ! Bần Tăng giáng đàn giờ này không phải riêng vì lời khẩn nguyện, mà chính là vì nhiệm vụ đối với kỳ ba trong Nguơn Hội và cũng vì chữ TÂM của các hàng tu hành tìm chân lý đạo.
      Hỡi chư hướng đạo! Chư hiền đồ! Người sanh tại thế gian kết hợp bởi tinh huyết tạo thành, cùng tổng hợp với các chất động tịnh, nóng mát, cứng mềm và chìm nổi, để bao bọc giác linh tâm thức, tiểu châu thiên vận chuyển trong đại châu thiên. Nhưng đến khi những chất ấy đã hoại theo luật thâu tàng, thì cái danh mà người đời đặt cho hình thức bản thể để mà gọi, sẽ tiêu tan theo không gian và chỉ còn dư âm lại của thời gian.
      Thế nên, người đời trong cõi vô thường này, có giác linh tâm thức, đã sử dụng và lưu lại cái danh như thế nào?
      Nếu không làm được bậc quân tử hiền nhân Thánh Triết, thì ngược lại sẽ làm chúng sanh hay tội đồ trong nhơn loại.
Trường kệ:
Nương cõi tạm mọi điều phải tạm,
Ở hồng trần chịu bám bụi trần;
Công bình Tạo Hóa cầm cân,
Ngửa tay thọ lãnh mỗi phần thưởng răn.
Bến hoạn đồ lăng xăng chen lấn,
Cõi vô thường lẩn bẩn lại qua;
Hỡi ôi! sanh, tử, bịnh, già,
Trăm năm cửa tục vào ra bao lần!!!
Trước vật dục tâm thần sở tế,
Trong vọng hành trí tuệ vô minh;
Có mình ai biết đặng mình,
Nghiệp duyên vạn hữu bẩm sinh chốn nào?
Mồi danh lợi sôi trào mặt bể,
Miếng đỉnh chung treo để đường trần;
Quen mồi cá nọ lụy thân,
Nặng lòng phàm tục ngập ngừng lối đi.
Cuộc tiến hóa tân kỳ vũ trụ,
Cơ vận hành cố thủ càn khôn;
Có đào thải, có bảo tồn,
Lọc lừa kẻ dại người khôn hội nầy.
Ôi! vật chất lấp đầy cảnh tục,
Khiến tâm thần câu thúc vô minh;
Gây nên những cảnh bất bình,
Cho toàn nhân loại điêu linh khổ nàn.
Sóng văn minh bủa tràn thế hệ,
Gió phong trào biến thể quốc phong;
Muốn cho tâm vật tương đồng,
Hoằng dương ĐẠI ĐẠO nhằm trong hạ kỳ.
      Hỡi chư hiền đồ! Đạo là con đường mà nhân loại hằng đi. Đạo là nguồn sống mà nhân loại hằng sống. Nếu người đời hiểu biết như vậy, không còn chấp nê “NHƠN, NGÔ.
      Người đời sẽ tự mình gìn giữ lương tri lương năng trong cái bản thể của con người. Tâm sẽ không phiền lụy, thân sẽ chẳng buộc trái oan, đạo lý cá nhơn sẽ xây dựng trong ba mối năm giềng, mỹ tục phong thuần, âu ca lạc nghiệp, nhà không đóng cửa, ngoài đường chẳng lượm của rơi. Người đời khi hưởng được cái hạnh phúc thực tại, sẽ biết chân hạnh phúc. Người đời khi đã sống trong cái lý tương đồng của nhân loại, sẽ biết được cái lý tương quan của vũ trụ càn khôn. Niết Bàn Cực Lạc đó, Thần Thánh Tiên Phật đó, nào có xa đâu. Nhưng than ôi!
Tiếp trường kệ:
Nhìn thế sự loạn ly chinh chiến,
Trông nhân loài diễn biến tương tàn;
Thành sầu bể hận dọc ngang,
Do mầm thị dục ngập tràn “Ngã, Nhân”.
Ôi! mộng huyển vô thường bào ảnh,
Danh, lợi, quyền, ấm, lạnh, nhục, vinh;
Đặng người e lại mất mình,
Do nhân ích kỷ mà sinh hận thù.
Ta biết chuộng võng dù xa mã,
Người cũng ham lộc cả quyền cao;
Ta toan tách ngõ ngăn rào,
Thì người lại sắp hố hào chia ly.
Ta muốn đặng vinh thê ấm tử,
Người cũng mong ngàn tứ muôn chung;
Ta toan kỳ thị oai hùng,
Người cùng kiêu dũng mà cùng tranh phuông.
Ta kế hoạch thay tuồng đổi lớp,
Người mưu mô đoạt cướp giựt giành;
Ta toan đắp lũy xây thành,
Thì người lại sắp tung hoành giang sơn.
Ta quyết chí đồ Vương định Bá,
Người rắp tâm thiên hạ tóm thâu;
Gieo nên gió thảm mưa sầu,
Vô thường đến cửa còn đâu “Ta, Người”!
Nhân chấp ngã để đời truyền kiếp,
Quả chiến tranh cộng nghiệp nhơn sanh;
Giang san cẩm tú Trời dành,
Sao không cùng hưởng mà đành xé xâu!

      Hỡi chư hiền đồ! Thế sự ngày nay đang đắm chìm trong nhân ngã tế chấp, hệ lụy cái thế giới vô thường, thì Đạo là phương cứu rỗi, là chiếc thuyền từ để giúp các hàng lãnh giáo có phương tiện đem diệu dược mà cứu khổ chúng sanh. Diệu dược ấy là chơn lý ĐẠI ĐẠO.
      Còn về khuynh hướng của người tu, thì chỉ chú trọng vào sự giải thoát mọi cảnh khổ cho chính bản thân mình để hầu tìm phương cách, làm một công cuộc giải thoát cho khắp mọi người. Ôi! Lành thay! Lành thay!
      Bần Tăng vâng Ngọc sắc THƯỢNG ĐẾ đến thế gian này thiết Tam Long Hoa Hội trong Tam Kỳ Phổ Độ, là một cuộc phản cổ, vạn thù qui nhứt bổn, thì các Đấng Thần Thánh Tiên Phật đều phải xương minh chánh pháp để tái lập cõi dinh hoàn này trở lại đời Thượng Nguơn Thánh Đức, nhà nhà đều hưởng thú thanh bình, âu ca lạc nghiệp trong cảnh Thiên Đường tại thế. Do đó mới có ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ  THƯỢNG ĐẾ tá danh Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát cũng một ý nghĩa đó.
Tiếp trường kệ:
Chơn lý Đạo nhiệm mầu vô thượng,
Vạn pháp môn qui hướng độ đời;
Tam Nguơn chuyển thế luật Trời,
Mười hai vận hội tùy thời hoằng dương.
ĐẠI ĐẠO vốn con đường duy nhứt,
Tu chứng nhờ tâm thức chơn như;
Ngã, Nhân sắc tướng diệt trừ,
Duy tâm tam giới từ từ viên thông.
      Bao nhiêu cũng đủ lắm rồi, ban ân hiền đồ trọn lòng hành đạo. Xin giã từ, thăng.

Thứ Ba, 14 tháng 6, 2011

Sầu Riêng


Sầu Riêng

- Mẹ, sầu riêng rộ. Mẹ mua cho Nội một trái đi Mẹ. Nội nói cả chục năm rồi Nội chưa ăn múi nào hết.
- Bên này sầu riêng mắc như vàng, của đâu mà cho Nội mày ăn cho đủ. Tao hầu Ba mày mệt rồi, thêm Nội mày nữa có nước đem chôn tao sớm.
Thằng Tí như bị hụt hẫng trước câu trả lời của Mẹ nó... 
Mùa sầu riêng năm sau, Nội nó mất. Hôm giỗ đầu, Mẹ nó mua một trái sầu riêng thật to để trên bàn thờ.
Mẹ nó nói với mọi người:
- Má chồng tôi hảo sầu riêng lắm. Mắc cách mấy tôi cũng ráng mua để cúng Má tôi.
Mọi người khen Mẹ nó là dâu thảo. Chỉ có thằng Tí biết. Nó lặng lẽ đến cạnh bàn thờ thì thầm:
- Xin Nội tha lỗi cho Mẹ con!
Nguồn: Những mẩu truyện ngắn

Thứ Hai, 13 tháng 6, 2011

Góp một phần yêu thương vào cuộc sống!


Góp một phần yêu thương vào cuộc sống!

Nó vừa bước vào phòng học, khua tay xuống gầm bàn thì bỗng nhiên có vật gì đó cứng cứng, cầm lên là một chiếc điện thoại LG cảm ứng.
Nó há hốc miệng, nhìn xung quanh. Không thấy một ai cả, chẳng nhẽ ai đó đã bỏ quên từ hồi sáng. Lớp học dần đông hơn, nó cứ ngồi đấy ngắm nghía, mân mê chiếc điện thoại từ trên trời rơi xuống. Rồi nó lại nhìn qua chiếc điện thoại của nó, Nokia 1202, chỉ đơn giản là một cái “cục gạch”.
Nó nghĩ thầm trong bụng, mình đã từng có một chiếc điện thoại xịn như vậy nhưng đã bị mất có lẽ đấy là ý trời muốn trả lại cho mình những gì đã mất. Nó cười thầm… Hay là mình giấu cái điện thoại này đi, dù sao cũng chẳng ai biết, lại còn có điện thoại xịn mà dùng.
Nó phân vân mãi, đấu tranh mãi.  Trong con người nó, một tốt một xấu bắt đầu “đánh nhau”. Nó nghĩ đến lợi ích của bản thân nó khi được chiếc điện thoại như vậy. Nó sẽ có cái khoe với bạn bè, không sợ cái Lan lúc nào cũng bĩu môi chọc nó “cái cục gạch của mày ấy à, không đáng tiền, đã dùng phải dùng hàng xịn chứ”. Mỗi lần nghe cái Lan nói vậy là nó như muốn điên tiết lên nhưng điều kiện hoàn cảnh nhà chỉ có thể sắm cho nó chiếc điện thoại “cục gạch” ấy thôi. Nó đặt 2 chiếc điện thoại lên bàn, một của nó và cái kia là của một người xa lạ, ai  “xấu số” đã bỏ quên chiếc điện thoại trong gầm bàn và giờ đây nằm trong tay nó. Nhìn qua nhìn lại… nó nghĩ, chiếc điện thoại này đẹp quá, đúng cái màu nó thích nữa mà mua chắc cũng phải mất vài triệu. Hay là mình cứ lấy đi… Rồi nó lại thấy cái gì đấy khó chịu trong lòng… hay là mình trả cho người ta.
Cái thiện và cái ác trong nó đang xung đột. Nó nhớ đến có lần thầy đã hỏi “Một ngày mẹ em bị ốm nặng không có tiền chữa bệnh, ra ngoài đường em tình cờ nhặt được một số tiền đủ để mua thuốc cho mẹ. Em sẽ làm như thế nào nếu như em biết người bị mất số tiền ấy cũng đang rất cần tiền để chữa trị cho con của họ. Không có số tiền ấy con họ có thể bị chết”. Khi ấy có một bạn nói sẽ không trả lại tiền cho người bị mất vì tính mạng của mẹ lúc đó là quan trọng hơn cả. Nó đứng lên phản đối câu trả lời của bạn đó, nó đã biện minh rằng không bao giờ được vì lợi ích của bản thân mà cướp đi mạng sống của người khác như thế. Nếu là tôi, tôi sẽ trả lại tiền. Vì nhặt được của rơi phải trả lại cho người mất chứ”. Hôm đó, có thể người bạn đó đúng, cũng có thể chỉ mình nó đúng nhưng nó đã được thầy giáo khen.
… Nó chợt chột dạ khi chiếc điện thoại nó nhặt được rung lên, có ai đó gọi. Trên màn hình là dòng chữ… “mẹ yêu đang gọi”. Cuộc gọi lặp đi lặp lại 3 hay 4 lần gì đó. Tự dưng lòng nó bâng quơ… hay mình đem trả lại cho người ta. Ở nhà mẹ luôn dạy nó ra ngoài phải làm thật nhiều việc tốt, chỉ khi mình làm việc tốt mình mới cảm thấy cuộc sống này có nhiều niềm vui. Chỉ khi mình làm nhiều việc tốt mình mới cảm thấy rằng cuộc sống xung quanh tràn ngập yêu thương, tràn ngập tiếng cười.
Nó đứng lên, cầm chiếc điện thoại đi thẳng lên bàn giáo viên. Nó đưa chiếc điện thoại ấy cho thầy và nhờ thầy tìm chủ nhân chiếc điện thoại giùm nó. Nó thầm nhủ trong lòng “cái gì của mình thì sẽ là của mình, cái gì của người khác thì nên trả lại. Mong rằng chiếc điện thoại sẽ sớm về với chủ nhân của nó, mẹ bạn đang lo lắng cho bạn lắm đấy”. Nó mỉm cười, lòng nhẹ tênh… thế là nó đã làm một điều tốt, nó đã góp một phần yêu thương vào cuộc sống hiện tại này.
Nguồn: FB Phật Pháp

Chủ Nhật, 12 tháng 6, 2011

Tấm gương đạo hạnh muôn đời còn ghi


TẤM GƯƠNG ĐẠO HẠNH MUÔN ĐỜI CÒN GHI

Khu rừng phía Nam kinh thành bỗng xáo động hẳn lên. Chim chóc gọi nhau lẩn trốn, thiêm thiếp lo sợ trong các cành cây kẽ lá. Từ hươu nai cho đến hổ báo đều loan truyền một tin hung dữ: Nhà vua đi săn.
Ca Lợi Vương đi săn. Khác hẳn với các cuộc đi săn thường, lần này nhà vua tổ chức một cuộc săn quy mô trong suốt tuần lễ. Vì nhiều lẽ, và trong đó có một lẽ là để trừ khử uy tín của một đạo sĩ về tu hành trong khu rừng phía Nam này.
Ðoàn người đi săn đã đến tại mé rừng. Thật như là một binh đoàn đi chiến trận. Có đủ cung tên gươm giáo, có ban tiếp vận lương thực, có hệ thống truyền tin liên lạc. Họ dựng lều trại và sửa soạn cho vua tá túc. Ca Lợi Vương cưỡi một con bạch mã, bận nhung phục gọn ghẽ, dẫn đầu toán lính săn. Bản chất mạo hiểm của ngài thường thấy bộc lộ trong những trường hợp như thế này. Ðoàn người tiến sâu vào rừng. Mỗi lần nhà vua bắn hạ được một con thú thì cả đoàn hoan hô vang dậy và sẽ có một bọn sắp sẵn để mang con vật xấu số đến trước mặt ngài.
- Muôn tâu Hoàng thượng! Con thú bị mũi tên thần bắn trúng vào chính giữa đầu.
- Muôn tâu Hoàng thượng! Hoàng thượng vừa hạ một con hươu đẹp đẽ nhất trong loài hươu.
- Muôn tâu Hoàng thượng!...
Và Hoàng thượng kiêu hãnh mỉm cười, truyền lịnh khao thưởng quân sĩ.
Ðến trưa, cuộc đi săn tạm nghỉ. Vua ngả người trên chiếc võng và an mình trong giấc điệp. Khi ngài thức dậy thì ngài ngạc nhiên thấy quân lính thiếu mặt rất nhiều. Bọn chúng đi đâu? Ngài đang băn khoăn thì bỗng đội liên lạc về phi báo là bọn quân lính đã tề tựu ở dưới một gốc cây Bồ Ðề để nghe một đạo sĩ thuyết pháp.
Hãy tưởng tượng Ca Lợi Vương giận dữ đến bực nào! Trước đây, dư luận đã xôn xao về tin này, người ta đã cho nhà vua hay là có một vài người trong hoàng tộc cũng lén lút đến nghe đạo sĩ thuyết pháp. Và chính bởi lẽ đó mà vua tổ chức cuộc đi săn này để tìm hiểu thực hư. Vậy mà giờ đây, tên đạo sĩ lại cả gan khuyến dụ cả quân lính nhà vua.
Lệnh tập họp cấp tốc được lan truyền. Số vắng mặt vẫn chưa thấy trở về. Vua đinh ninh rằng kẻ tu hành đã đánh bùa mê để cầm giữ một cách phi pháp lính của ngài. Ngài nhảy lên ngựa và đích thân đến nơi. Quan quân lục tục kéo đi theo ngài.
Gần đến nơi rồi. Một vài cận thần thân tín thúc ngựa lên trước. Họ quát tháo ầm ĩ. Quân lính đang vây quanh vị đạo sĩ sực nhớ lại nhiệm vụ của họ đối với Hoàng thượng, nên vội vàng nới rộng vòng và cúi đầu chịu hình phạt. Họ vừa nghe một bài dạy về hạnh từ bi, họ cảm thấy tội lỗi của họ trong cuộc đi săn đầy sát khí, và giờ đây họ ước muốn nhà vua đuổi cổ họ về, hơn là họ tiếp tục cuộc chém giết.
Nhà vua đã xuống ngựa. Ngài định tiến đến trước mặt nhà đạo sĩ, nhưng những cận thần đã vội ngăn cản:
- Muôn tâu Hoàng thượng, việc trục xuất tên Sa Môn này đâu phải nhọc đến thánh thể, xin cho phép để hạ thần ra tay.
Vừa tâu xong, họ xông đến. Họ dùng bao nhiêu lời thô bỉ để lăng mạ, để chửi rủa như trong giây phút họ sẽ phanh thây đạo sĩ thành trăm mảnh. Nhưng “chó vẫn sủa mà lạc đà vẫn đi qua”, đạo sĩ vẫn không nói lại một lời, không sắc giận, điềm nhiên như không.
Cảnh tượng ấy làm vua Ca Lợi Vương khá ngạc nhiên. Từ trước đến giờ, kẻ nào thấy vua cũng phải phủ phục dưới chân để tung hô Hoàng đế vạn tuế, thế mà hôm nay lại có một kẻ tu hành trước mặt ngài vẫn cứ ngồi lỳ như chết. Ngài bước tới, truyền lịnh cho các cận thần lui ra và dõng dạc hỏi:
- Này tên Sa môn ương ngạnh kia! Nhà ngươi ngồi đây để làm gì?
Ðạo sĩ trả lời:
- Kẻ này tu hạnh nhẫn nhục.
- Hạnh nhẫn nhục là thế nào?
Ðạo sĩ điềm tĩnh trình bày, giọng từ hòa như giọng đã thuyết pháp cho các người lính săn ban nãy:
- Tâu Hoàng thượng! Tu hạnh nhẫn nhục là giữ tâm khiêm nhường với tất cả mọi người, là trừ bỏ những hành vi tự đắc, kiêu mạn, là dùng lời nói êm dịu để khuyến hóa chúng sanh. Tâu Hoàng thượng...
Nhà vua không nén được giận dữ nữa. Những lời đáp của đạo sĩ thì chân thật mà vua tưởng là cố ý xoi bói công kích sự ồ ạt nóng nẩy của mình. Hoàng thượng thét, cắt ngay lời đạo sĩ:
- Im, im ngay.
Vua quay lại, như muốn hạ lịnh cho vệ sĩ của ngài ra tay tức khắc. Bỗng vừa nẩy ra sáng kiến gì, vua lại hướng về phía đạo sĩ, rồi dịu giọng hỏi:
- Nhưng mà, ta hỏi thêm nhà ngươi câu này. Tại sao khi nãy, cận thần của ta hết lời mắng chửi nhục mạ nhà ngươi mà nhà ngươi vẫn làm thinh?
- Tâu Hoàng thượng! Kẻ này suy nghiệm rằng: Nếu như những lời chửi mắng của người khác là đúng thì phải sanh lòng hổ thẹn để mà hối cải. Còn nếu những lời chửi mắng nhầm lẫn thì xem như là những tiếng vang như gió thoảng ngoài tai mà thôi. Tuyệt nhiên không khi nào sanh tâm oán hận.
Câu trả lời có một phản ứng mạnh. Quân lính thì thầm thán phục, các cận thần trố mắt kinh ngạc. Còn nhà vua, ngài cảm thấy tự ái của ngài xúc động. Ðể phục hồi uy tín của ngài, ngài rút mạnh thanh kiếm, và bảo:
- Ðây là những lời xảo trá và vô lễ!
Rồi ngài hạ tay cắt đứt đôi vành tai của đạo sĩ. Dòng máu đỏ rỉ rả thấm ướt đầm cả đôi má. Mọi người nín lặng. Tuy nhiên, đạo sĩ vẫn tĩnh tọa sắc mặt vẫn thản nhiên. Không chút gì tỏ vẻ đau đớn và oán thán.
Nhà vua không ngờ có một sức chịu đựng lạ lùng. Hay đây là một tên phù thủy có nhiều pháp thuật? Dầu sao, vua không thể lùi bước được. Ngài vung kiếm chặt đứt thêm hai bàn tay đạo sĩ đang chấp trước ngực:
- Hãy xem tên thầy pháp này nhẫn nhục đến mức nào?
Máu đào tuôn ra, thấm quanh chỗ ngồi của vị tu hành. Tuy thế đạo sĩ vẫn không thốt lên một tiếng kêu than. Vết thương như làm cho thần trí của người thêm sáng suốt và dõng mãnh. Gương mặt người trông từ bi lạ lùng.
Thật là một dòng nước mát rưới lên lửa hận thù của nhà vua hung bạo. Vua lặng thinh. Bây giờ ngài hiểu rằng kẻ đương ngồi trước mặt ngài không phải là một kẻ tầm thường. Ngài gượng cất tiếng giữa sự im lặng nặng nề của quân binh:
- Hỡi đạo sĩ, tại sao ngươi bị hành hạ thân xác mà ngươi không chút gì sắc giận?
Ðạo sĩ thong thả trả lời:
- Tâu ngài, nếu như tôi có lỗi mà bị hành hạ thì tôi phải nhẫn thọ như uống được nước cam lồ và sinh lòng cung kính với người. Còn gặp trường hợp không phân biệt phải trái mà người xúc phạm đến tôi, thì tôi suy nghĩ rằng ngày nay tôi vô tội, nhưng biết đâu không phải do ác nghiệp ngày trước mà nay phải chịu. Vả lại, thân này là sự cấu hợp giả tạm thì cũng không nên lấy gì làm luyến tiếc.
Ca Lợi Vương bấy giờ đã hối hận về tội ác của mình. Nhưng vì tập tánh chủ quan chỉ biết hạch lỗi kẻ khác lâu nay, vua gạn hỏi thêm một lần nữa:
- Hay lắm! Nghĩ được như thế thì hết sức tốt đẹp. Nhưng làm thế nào cho ta tin rằng nhà ngươi thật tình nghĩ như thế. Làm thế nào cho ta tin rằng nhà ngươi không oán hận ta, không oán hận những cận thần của ta đã sỉ nhục nhà ngươi?
Ðạo sĩ giơ hai cánh tay cụt, mắt sáng lên một cách lạ thường. Người phát thệ:
- Tôi thề rằng tâm tôi không có một chút oán hận nào. Những người gây đau thương cho tôi chỉ vì bị mây mờ che lấp đáng thương mà thôi. Nếu như lời tôi không chân thành với tâm tôi thì những vết thương của tôi trở thành lở lói ghê gớm, bằng như trái lại, tâm tôi hoàn toàn không oán hận thì những vết thương của tôi sẽ lành lặn.
Trời đất bỗng nhiên rung chuyển. Hương thơm tỏa ra ngào ngạt. Ca Lợi Vương và mọi người nín lặng chờ đợi. Ôi kinh ngạc biết bao! Họ trông thấy thân thể đạo sĩ lành lặn như xưa. Người ngồi tĩnh tọa dưới gốc cây Bồ Ðề, gương mặt từ bi, chói lọi hào quang.
Cái kiêu hãnh trước đây tạm thời cung cấp cho nhà vua một sức mạnh ồ ạt, mong manh, bây giờ vỡ tan ra bọt nước. Và hạnh nhẫn nhục của đạo sĩ quả là một năng lực bền bỉ, trường cửu, và bất khả chiến thắng. Nhà vua quỳ sụp xuống bên đạo sĩ và xin sám hối bao nhiêu tội lỗi. Vua còn nguyện ghi nhớ gương sáng nhẫn nhục này để thực hiện trong đời sống cá nhân, trong việc trị quốc của mình và đời đời kiếp kiếp xin tận tâm phụng sự Chánh Pháp.
Ðạo sĩ khiêm tốn đỡ Ca Lợi Vương dậy và hiền dịu bảo:
- Lời phát tâm tốt đẹp của ngươi tự nó đã xóa bỏ được lỗi lầm do chính ngươi gây ra. Và ta hứa với ngươi rằng, trong tương lai khi ta thành đạo, ta sẽ nhận ngươi làm đệ tử đầu tiên của ta.
* * *
Vị đạo sĩ đáng kính trên đây là tiền thân Ðức Phật Thích Ca và Ca Lợi Vương là tiền kiếp của ngài Kiều Trần Như.
Và đúng như lời đã hứa, sau khi thành Phật, mở đầu cho lịch trình truyền đạo 49 năm trời, Ðức Thế Tôn đã thuyết pháp lần đầu tiên tại khu vườn Lộc Uyển cho năm vị đệ tử, trong đó có ông Kiều Trần Như.
Quảng Huệ
(Trích trong "Truyện cổ Phật giáo" tập 4 - Thích Minh Chiếu sưu tập)