Thứ Bảy, 16 tháng 10, 2010

Tây Vương Thánh Mẫu Chơn Ngôn Kinh


 

TÂY VƯƠNG THÁNH MẪU
CHƠN NGÔN KINH
 (Đàn tại Long-Xuyên đêm 14 rạng 15 tháng 8 năm Quí Dậu – 1933)

Tây-trúc thời kỳ dụng Thích-Ca,
Vương-môn để tiếng cậy Di-Đà;
Thánh phàm phân-biệt Du-Đà-Luận,
Mẫu tự kinh tàng Tát-Đản-Đa.
Chơn-Thể, Chơn-Thân đam Phật-Tánh,
Ngôn hành, ngôn sắc, dạy ta bà;
Giác-mê Thầy chuyển Tam-Kỳ Đạo,
Thế giới từ đây Một với Cha.
Đêm trong trắng, trắng trong như lọc,
Nghe tiếng con Mẹ phút chạnh lòng;
Bởi con mến chốn bụi hồng,
Nên con tách Mẹ trùng trùng ra đi.
Tưởng ra đi mãn kỳ trở lại,
Nào dè con chẳng đoái chẳng hoài;
Ra đi Mẹ dặn một hai,
Một hai phải tránh chông gai cuộc đời.
Dặn con phải giữ lời sau trước,
Bước hồng-trần là nước quỉ ma;
Dặn con chớ khá ta-bà,
Dặn con chớ khá kê cà mãi mê.
Dặn con nhớ cảnh quê làm trọng,
Dặn con thường để bụng nằm lòng;
Rằng loài ma quỉ phải phòng,
Rằng loài lưỡi mối nọc ong phải ngừa.
Dặn con phải sớm trưa kinh-kệ,
Dặn con đừng bê trễ công-trình;
Dặn con Mẹ dặn đinh-ninh,
Dặn con phải giữ phải gìn tấm thân.
Dặn con biết mấy lần trân trọng,
Mà con đành rẻ rúng lời khuyên;
Con đành gây cuộc não phiền,
Con đành gây cuộc trần-duyên lao-lồng.
Nay con thấm bẫy vòng cắn-xé,
Con mới đành nhớ Mẹ sao con;
Con ôi! Lòng Mẹ héo don!
Con ôi thân Mẹ vì con hao gầy.
Rày con được Ơn Thầy cứu-độ,
Đem con về phải chỗ phải nơi;
Khuyên con dạy phải nghe lời,
Khuyên con chớ khá giỡn chơi ích gì?
Tu phải biết Qui-Y làm báu,
Qui-Y là nương-náu cửa Trời;
Tu cho kịp tiết kịp thời,
Tu đừng xao lãng những lời Mẹ răn.
Nầy lời Mẹ ân-cần nhắc-nhở,
Thấy con thơ Mẹ ứa đôi hàng;
Thương con trước chịu lạc đàng,
Con ôi phận gái gian-nan não-nề.
Thương con gánh nhiều bề cay đắng,
Thương con dầm lửa nắng nước sương;
Con ôi phận gái đoạn-trường,
Con ôi phận gái chải-bương mới thành.
Tu phải biết việc lành việc dữ,
Tu chừa lòng bảy lự ba lo;
Thầy đà sau trước dặn dò,
Thầy đà chực sẵn chiếc đò Lý-Chơn.
Đò Chơn-Lý Chủ-Nhơn đã chọn,
Chơn qua đò khỏi tốn khỏi hao;
Miễn con trong trắng một màu,
Miễn con sau trước trước sau một niềm.
Tu phải giữ lặng êm là gốc,
Tu phải cha cái nọc nhiều lời;
Con ôi tai họa khắp nơi,
Tại người uốn lưỡi khua môi hại mình.
Giữ một dạ kỉnh-thành làm trước,
Lòng đừng lo họa, phước, có, không;
Có, không là luật chí-công,
Có, không, cũng tại nơi lòng các con.
Đêm thanh-vắng con tròn phận sự,
Đọc Kinh thì ráng giữ lấy mùi;
Đừng ngâm chót lưỡi đầu môi,
Mẹ còn lui tới, tới lui phân trần.
Đọc Kinh phải cân phân từ tiếng,
Tiếng Kinh là Kinh-Điển của Thầy;
Đọc Kinh gẫm được mùi hay,
Dẫu cho sắt, đá, cỏ, cây, cũng thành.
Gái cần giữ thân danh làm trước,
Kế quỉ ma nhiều nước tinh yêu;
Êm tai sáo quyển lòn chiều,
Nếu con nhắm mắt nghe liều hư thân.
Mẹ đã dạy nhiều lần cặn kẽ,
Quỉ thường xưng tên Mẹ lắm con;
Con nào gan yếu dạ non,
Nghe lời bưng bợ ngọt-ngon phải lầm.
Cách đi, đứng, ngồi, nằm, cẩn-thận,
Điệu mỏng mềm ấy phận người tu;
Tránh xa tiếng quến lời rù,
Tránh xa những bợm giả mù sa mưa.
Thấy nhiều trẻ bơ-thờ hõng-hẻo,
Tướng dịu-dàng yểu-điệu khá thương;
Tại sao mang số đoạn trường,
Tại quên những tiếng nghĩa phương ngọc-ngà.
Thương con dại thiết-tha tha-thiết,
Vui vẻ chi mài-miệt cõi trần;
Con ôi xét lấy nàng Hằng,
Trọn năm được thấy mấy lần đẹp xinh.
Mẹ hằng cậy nhắn tin cho trẻ,
Khuyên trẻ đừng bê-trễ công-trình;
Thương con Thầy phế Ngọc Kinh,
Rước con khỏi chốn hỏa-khanh đem về.
Con khá chớ bỏ bê lúc rảnh,
Lúc rảnh thường Tâm Tánh lãng xao;
Tánh Tâm xao lãng phân hào,
Tự nhiên con phải mỏn hao tinh-thần.
Tu phải trọng Chơn-Thân Chơn-Thể,
Thân-Thể nầy gốc rễ của con;
Chơn-Thân, Chơn-Thể, Chơn-Hồn,
Giữ gìn trong sạch mới còn gọi con.
Đừng vụng tưởng phấn son là sạch,
Son phấn làm Chơn-phách phải lu;
Mấy ai rọi kiếng trăng thu,
Mấy ai ngồi kiệu lấy dù che thân.
Đừng vụng tưởng cơ bần là nhục,
Cơ bần là chánh gốc mỗi con;
Lúc sanh đỏ lói một hòn,
Lúc về có kể vật chôn nhng gì?
Con phải nhớ lúc đi Thầy dặn,
Phải cho tròn bổn phận Thầy sai;
Đừng lo phú quí chông gai,
Phải cho xứng đáng Tam-Tài mới xinh.
Chánh Tam-Tài mới vinh mới quí,
Giả tiền-tài đồ mị phá chơn;
Con sao chưa rõ thiệt hơn,
Đã dư mấy kiếp đường trơn bước hoài.
Rày Mẹ nhắc chỗ sai con hiểu,
Hiểu được rồi Mẹ biểu phải nghe;
Nghe rồi cẩn-thận trăm bề,
Tránh đoàn kết đảng, lập phe phỉnh phờ.
Con phận gái lỡ cơ sao được,
Phải dặt dè từ bước mới ngoan;
Sao cho danh gái rỡ-ràng,
Chín mười cho đúng tuổi vàng Mẹ trao.
Cuộc trần thế ảo bào mộng ảnh,
Có chơn tu mới rảnh phù-sanh;
Muốn cho chơn thật tu hành,
Ráng lo gìn giữ kỉnh thành đừng quên.
Người ở thế đặt tên kể tuổi,
Tên tuổi nầy một buổi chẳng lâu;
Mấy tên phú quí công-hầu,
Có đem chi được để chầu Ngọc-Kinh.
Người ở thế danh thinh làm trước,
Thinh danh là cội phước sự tu;
Công, dung, ngôn, hạnh, làm đầu,
Lòng đừng mê-hoặc phải trau sửa mình.
Đừng tập lối văn-minh dối trá,
Văn-minh nầy quỉ phá mấy hơi;
Con ôi Mẹ đã cạn lời,
Rán cho trong sạch tên Người tuổi Ta.
Tên tuổi Ta bao la vũ-trụ,
Tên tuổi Người che phủ thế-gian;
Muốn cho tên tuổi miên tràng,
Ta, Người, tên, tuổi, vững-vàng chớ sai.
Người xuống thế ai ai cũng một,
Phải rõ Người là ruột với mình;
Với mình như một mới xinh,
Với mình như ruột mới rành tuổi tên.
Con phải nhớ chớ quên lời Mẹ,
Được thân người chẳng dễ đó con;
Tuổi tên được vậy mới còn,
Tuổi tên được vậy mới tròn thinh-danh.
Đừng tập nết trớ trinh lêu lỏng,
Theo tánh phàm học giọng cầu cao;
Chị em đừng tiếng mầy tao,
Chị em tiếng nói ngọt ngào mới ngoan.
Lời ăn nói dịu dàng mềm mỏng,
Mới làm cho trên trọng dưới vì;
Học chi cái giọng ngu-si,
Học chi cái giọng dị-kỳ khó ưa.
Đừng học thói đỏng đưa miệng lưỡi,
Mà có khi vướng lưới quỉ ma;
Khôn-ngoan sao bẵng thiệt-thà,
Cứ lời Mẹ dạy mới là gái ngoan.
Con đã chán các đàng tội phước,
Mừng cho con nay được gặp Thầy;
Ơn Thầy rưới khắp cỏ cây,
Con tua tỉnh mộng kịp ngày qui nguyên.
Phần xác thịt ba giềng làm trọng,
Phần Thiêng Liêng phải gióng cho cân;
Chớ hao Tinh, Khí, hại Thần,
Tinh Thần quí báu phải cần phải chuyên.
Thần, Khí, Tinh, Tiên-Thiên làm gốc,
Tinh, Khí, Thần, là nọc hại người;
Con ôi đừng tưởng trò chơi,
Nếu con sai ngược Đạo Trời dễ đâu.
Đừng nghe kẻ mượn màu Đại-Đạo,
Tiên, Hậu, Thiên, ngược ngạo phỉnh đời;
Nếu con sai lạc tấc hơi,
Luân-hồi phải vướng chạy Trời được sao.
Mẹ thấy trẻ khát khao tìm Đạo,
Mà lại tin chuyện ảo rằng chơn;
Con ôi chớ cậy giọng đờn,
Giọng đờn là giọng hại khờn hồn linh.
Con muốn rõ công trình tập luyện,
Tập luyện rành cửu-chuyển phải thông;
Muốn cho cửu-chuyển được ròng,
Gần Thầy mới rõ huyền-công thể nào.
Con phải biết Đạo cao tối trọng,
Đừng để lòng hờ hững sự Tu;
Chớ tin những lủ quáng mù,
Mượn Thầy giả Đạo quyến rù hư thân.
Nghe tiếng trẻ Mẹ mừng cho trẻ,
Trẻ phải mau bước lẹ đường ngay;
Muôn năm mới gặp hội nầy,
Trễ cơ hội ắt đọa-đày vướng-mang.
Đã gặp Đạo gặp đàng chánh-đáng,
Thì phải lo phải ráng công-trình;
Mẹ khuyên bỏ tánh hớ-hinh,
Mẹ khuyên bỏ tánh chống kình chị em.
Tánh kình chống ráng kềm cho dứt,
Nó làm cho Đạo-Đức phải hư;
Con ôi Mẹ vốn Đại-Từ,
Thương con Mẹ nán giờ dư chỉ bày.
Thấy trẻ dại đọa-đày thân-thể,
Mãi tranh đua theo thế nhán-hào;
Quên nhìn Đất rộng Trời cao,
Đành vùi bụi cỏ để xao Tánh Trời.
Thần, Tiên, Phật, rao lời cạn tiếng,
Khuyên các con bỏ miếng tu chơi;
Tu cho biết Phật, biết Trời,
Tu cho biết Đạo, biết đời, mới tu.
Trẻ mến Đạo, thầy mù khó dắt,
Trẻ ham đời thì mắc tay phàm;
Xanh, vàng, sợi chỉ ai làm,
Con đường nam, bắc, bắc, nam, ai bày.
Muốn tìm Đạo gặp Thầy mới Sống,
Muốn tìm Thầy chớ vọng phàm tâm;
Con ôi Đạo-Lý cao-thâm,
Lầm sai một mảy hại thầm xiết bao.
Lòng thương xót đồng bào chớ nệ,
Một rún nhau của Mẹ mà ra;
Đông tây nam bắc gần xa,
Dẫu cho khác giống cũng là tình thâm.
Kẻ rù quyến gây mầm xâu-xé,
Lập phái phe chia rẽ thịt xương;
Lời ngon ngọt tợ như đường,
Nếu con nhẹ dạ mắc lường uổng-oan.
Con phải đến Đạo-Tràng Chơn-Lý,
Mới không còn có quỉ nơi Tâm;
Đạo-Tràng Thầy lập phải tầm,
Phải tầm cho gặp đặng chăm học hành.
Trời đã phú Tánh lành sáng suốt,
Thì con là con ruột của Trời;
Con Trời đâu có cãi lời,
Con Trời đâu có tiếng đời nhạo khinh.
Khuya những tối tự mình con xét,
Con xét con, con biết lấy con;
Con ôi Tánh Đức cho tròn,
Đừng ham những thói bôn chôn nhộn nhàng.
Chị em cũng một đoàn thua sút,
Giờ rảnh-rang phải học mới nên;
Học thì chí phải cho bền,
Học bền mới có tuổi tên với người.
Khi đi, đứng, khi cười, khi nói,
Lúc nằm, ngồi, lúc hỏi, lúc thưa;
Con ôi lễ-nghĩa chẳng vừa,
Nếu con thưa thớt ai chừa cho con.
Phận nhi nữ phải tròn danh-dự,
Nết đoan trang con giữ lấy con;
Tiếng thơm, tiếng nổi như cồn,
Tiếng nhơ, cũng nặng như hòn Thái-Sơn.
Muốn rõ Đạo chớ sờn công-quả,
Công quả bòn chớ khá từ nan;
Muốn thông công quả rõ-ràng,
Công càng bền vững, quả càng lớn-lao.
Công-đức được dày, cao, chói-rạng,
Công-nghiệp càng rọi bảng Ngọc-Kinh;
Sao cho công vững như thành,
Sao cho quả được trổ nhành, đơm hoa.
Phận nhi-nữ ngọc-ngà thân thể,
Công quả cho rành rẽ đường sai;
Công cao, phước mới được dài,
Công dày, đức mới vững tày núi sông.
Muốn được quả phải trồng nên quả,
Quả muốn trồng giống chạ chớ ương;
Con ôi phận gái đoạn-trường,
Đoạn trường càng phải tìm đường cho nên.
Mẹ đã dạy công bền mới được,
Công dày công được phước mới bền,
Học hành công khó mới nên,
Biến lười phải vướng vào nền tớ-tôi.
Mẹ đã dạy vun-bồi công-quả,
Con phải rành công cả của con;
Con nào công nấy vuông tròn,
Công nào quả nấy chẳng còn đợi chi.
Mẹ cũng biết nữ-nhi phận gái,
Mẹ sẽ trao phần dạy có người;
Con ôi công chớ biến lười,
Con ôi Mẹ đã ráo lời khúc-nôi.
Con phải biết luân-hồi nên sợ,
Luân-hồi làm nên nợ vô-minh;
Muốn cho công được viên thành,
Thì con khá ráng học-hành cho thông.
Kẻ dối-trá cuồng-ngôn khả-ố,
Mà làm tuồng dạy dỗ tròn, vuông;
Các con là gái quê môn,
Các con đâu rõ vuông, tròn là chi.
Các con hãy kỹ suy chính xét,
Thầy có đâu la lết dạo-đường;
Thầy đâu làm mặt trò-phường,
Thầy đâu tán-tận thiên-lương khuấy đời!
Con đã gọi con Trời thế-hạ,
Con phải mau hối-quá tự-tân;
Con sao chẳng chịu nhựt-tân,
Mà con lại muốn tránh luân-xa-hồi?
Bánh luân-xa lăn rồi chẳng đợi,
Nếu vướng vào con mới định sao?
Con ôi thiên-võng nan đào,
Đừng trông Bắc Đẩu Nam Tào cứu nguy.
Muốn cứu nguy chẳng chi lạ nữa,
Con khá lo tự sửa lấy mình;
Sửa mình cho được bất sinh,
Sửa mình cho được tiền trình vẻ-vang.
Nói đến con trăm đàng chua xót,
Mẹ xiết bao lệ giọt đượm tuôn;
Thấy con sa hố lạc truông,
Cũng vì con mãi làm tuồng khéo-khôn.
Càng khôn-khéo càng dồn cát bụi,
Khéo khôn chi với tuổi hồng-trần;
Hồng trần khôn-khéo nhố-nhăng,
Khéo-khôn theo buổi hồng-trần ích chi?
Kìa trước mắt con suy cho kíp,
Cuộc bi, hoan, ly, hiệp, mấy hồi;
Các con chẳng rõ cơ Trời,
Nắng, mưa, lạnh, nóng, mấy thời đó con.
Trời bình tĩnh thoạt còn nổi gió,
Trăng làu làu lại trổ mòi mưa;
Đừng ai khoe sớm, nói trưa,
Năm còn tháng thiếu, ngày thừa, phải sai.
Lời rỉ-rả canh dài Mẹ dạy,
Tiếng nỉ-non phải quấy Mẹ bày;
Con ôi gắng chí theo Thầy!
Ngọc-Kinh mới được có ngày đoàn viên.
Cơ họa-phước nhãn tiền mấy lát,
Cũng đều do khổ lạc chẳng tường;
Khổ kia ai tạo mà vương?
Lạc nầy ai bỏ, ai duồng lại chê!
Phải xét kỹ rõ bề khổ lạc,
Khổ tại đâu mình chác vào mình;
Tại mình nuôi cái vô-minh,
Vô-minh nào phải Trời sinh mà ngờ!
Kìa đuốc-tuệ ánh bờ Chơn-Lý,
Thầy đã khai rọi chỉ đường ngay,
Thuyền nghiêng, sóng ngược, phải quày,
Đừng khoe mạnh-bạo rủi tay lái lèo.
Người trí-thức coi dèo thời-thế,
Chớ hững hờ lầm kế tinh-ranh;
Con ôi phận gái mỏng-manh,
Thương con Mẹ chỉ mối manh con tường.
Đêm đã cạn Mẹ càng than-thở,
Bỏ tánh phàm xem-chị nhắm em;
Đạo dường gió tạnh sóng êm,
Con nào mến Đạo phải tìm đường Chơn.
Biết sao kể nguồn cơn sau trước,
Ham tự do con vượt ra đi;
Tự do nó có ích gì,
Tự do càng lắm càng suy tinh-thần.
Trẻ hối ngộ Mẹ mừng cho trẻ,
Rán lo tu kẻo trễ thời kỳ;
Gặp Thầy con rán qui-y,
Càng cho biết lễ, biết nghi, mới rằng.
Mẹ dạy con chẳng ngừng lời nói,
Con nghe lời đừng gọi phui pha;
Đêm khuya nguyệt xế trăng tà,
Con so bóng nguyệt còn là bấy nhiêu?
Duyên tứ-giả lắm điều dối trá,
Cuộc tuần-hoàn vay trả, chẳng thôi;
Lánh xa cái bánh luân-hồi,
Khá mau tỉnh ngộ vun-bồi Chơn-Linh.
Vững Chơn-Linh phải thinh Tâm-Tánh,
Nhìn Ngọc-Kinh là cảnh quê nhà;
Rảnh rang cái kiếp phù hoa,
Lặng Tâm, êm Tánh, mới là gọi con.
Mẹ  vì con lưỡi mòn đôi đoạn,
Mẹ vì con lời cạn mấy phen;
Công dư kết bạn với sen,
Công dư đâu để làm quen với bèo!
Chừa cái tánh tự-kiêu tự-đắc,
Mới có ngày gần Phật gần Trời;
Trời  tuy lộng-lộng vơi-vơi,
Nhưng Trời ở tại mấy lời Mẹ đây.
Con nghe Mẹ, Mẹ khuây-khỏa dạ,
Mẹ nhìn con, con hả hớn lòng;
Con ôi mau kíp trùng-phùng,
Đến đài Kim-Khuyết hiệp cùng chị em.
Lời tâm-huyết Mẹ đem tường-tận,
Khuyên con thơ yên phận tu hành;
Muốn cho gọi được gái lành,
Thì mau cải dữ, mới rành chơn tu.
Đừng phân-biệt trí, ngu, thêm hại,
Đố ai tường khôn, dại, là chi?
Trăm điều, đều tại Hóa-Nhi,
Đừng đem phàm tánh mà khi mà lầm.
Mẹ căn-dặn tu Tâm cho lắm,
Tu Tâm rồi, Tánh bẩm mới trong;
Tánh Tâm tuy cũng nơi lòng,
Mẹ còn lo ngại con không rõ đàng.
Lòng thương con ngổn-ngang trăm mối,
Muốn cho con tránh khỏi luân-hồi;
Nầy con Tâm, Tánh, bởi Trời,
Nầy con Tâm, Tánh, bởi người phá hư.
Phật thường gọi Chơn-Như Tâm-Phật,
Trời đã cho Minh-Đức Tánh-Trời;
Tánh Tâm trong sạch là Người,
Tánh Tâm xảo trá là đời đó con.
Đã gần trót đêm tròn Mẹ giảng,
Giảng cho con mấy đoạn éo le;
Phải nhìn Đất chở Trời che,
Phải nhìn cho kỹ đặng nghe đặng làm.
Đời gió bụi hiểm nham bớ trẻ,
Có thiện căn mới dễ tránh đời;
Tránh đời còn phải nghe Trời,
Nghe Trời thì phải nghe lời Mẹ khuyên.
Kẻ có phước thiện-duyên mới gặp,
Gặp thiện-duyên ráng tập mà làm;
Làm thì Nhứt-Đức, Nhứt-Tâm,
Nhứt-Tâm Nhứt-Đức Mẹ chăm nom liền.
Thầy đã dạy Mười Khuyên ráng nhớ,
Lại lắm khi nhắc nhở trăm điều;
Khuyên con Tâm-Huệ ráng khêu,
Ráng khêu cho tỏ đặng theo mới mầu.
Bề cư-xử sồng-nâu đạm-bạc,
Chớ kêu-đòi đài-cát trâm-anh;
Trâm-anh để gọi gái lành,
Trâm-anh nào phải sứa-sanh bề ngoài.
Mẹ dạy con chẳng nài lao khổ,
Tánh phàm khuyên ráng bỏ ráng chừa;
Ráng đem lại Tánh Trời xưa,
Ngọc-Kinh sớm bước chờ trưa trễ chầu.
Đuốc Chơn-Lý làu-làu Thầy rọi,
Nơi Trung-Ương đặng gọi các con;
Bòn vàng sông Lệ nên bòn,
Tìm châu tìm ngọc non Côn đến tìm.
Cây mát-mẽ có chim khôn đậu,
Kẻ hiền lành noi dấu Từ-Bi;
Từ-Bi Bác-Ái Thầy ghi,
Từ-Bi Bác-Ái Tam-Kỳ vẻ-vang.
Mẹ đã dựng nền vàng, tảng ngọc,
Con biết lo săn-sóc đêm ngày;
Ân-cần mực-thước đừng sai,
Thì con sẽ được dẫy-đầy Ơn-Trên.

Tam Quy Ngũ Giới



TAM QUI, NGŨ GIỚI
(Trích Thánh Giáo Sưu Tập)

Cõi thế THÁI hôm mơi phải rã,
Cảnh nhơn tình THƯỢNG hạ mấy ngày;
Muốn đời ÐẠO đức lâu dài,
Trò tua TỔ chức dồi mài công phu.
Ðây đến sự học tu ở thế,
Cựu luật điều chẳng phế, phải hành;
Khi xưa Thánh Chúa giáng sanh,
Cũng khuyên thế tục chí thành noi theo:
TAM QUI, NGŨ GIỚI,
TAM NGUƠN, NGŨ HÀNH,
TAM CANG, NGŨ THƯỜNG.
Tam Bửu dạy trò gieo Thánh Ðức,
Tam Qui xưa điều luật đành rành;
Qui Y Phật dạy chí thành,
Tiên truyền gìn giữ Nguơn Thần chớ xao.
Thánh giáo dạy một màu thờ Chúa,
Dầu phải thân rìu búa chớ từ;
Thành danh trung nghĩa khắc khư,
Vì thương đồng loại cũng như thương mình.
Qui Y Pháp chí linh phép nhiệm,
Gió cùng mây ai kiếm cội nguồn?
Huyền vi Tạo Hóa có luôn,
Phép Trời trò phải lo bươn kẻo chầy.
Tiên Giáo dạy Khí gầy đức tánh,
Rán gìn lòng khí mạch qui căn;
Thánh truyền hiếu thảo khôn ngằn,
Cha sanh mẹ dưỡng mấy trăng nặng nề.
Ơn Phụ Mẫu sánh bề sơn hải,
Công sanh thành nuôi dạy lớn khôn;
Ngày nay xác đã hiệp hồn,
Làm con phải nhớ vong tồn chớ sai.
Qui Y Tăng Phật đài Thánh tự,
Nghĩa linh căn gìn giữ chớ xao;
Tu tâm luyện tánh chí cao,
Xá Lợi ứng hóa người mau gội nhuần.
Tiên chỉ rằng: Nguơn Tinh là gốc,
Giữ kỹ càng mới học phép Tiên;
Thánh xưa còn để rọi truyền,
Phu Phụ hòa hảo nhơn duyên đặng thành.
Ðức Tống Hoằng khó tranh nghĩa nặng,
Sang cả mà lòng thẳng vợ hiền;
Không vì giàu có mà nghiêng,
Trò nay cũng ráng tập chuyên như người.
Luyện đức tánh vẹn mười chẳng sái,
Hễ ở trần nhơn loại phục ngôi;
Sửa đời phong bại tục tồi,
Tân dân minh đức qui hồi Thượng Nguơn.
Rằng đắc quả linh đơn chiếm bảng,
Thoát sanh hồn bỉ ngạn ngao du;
Thầy thương chỉ vẹt ngút mù,
Xưa nay Phật Thánh Tiên tu phép nào?
Trò có thấy Phật cao bất hiếu?
Hay là Tiên danh hiệu bất trung?
Muốn nên phải xét cho cùng,
Nhập thiền suy nghĩ mà dùng phép cao.
Ngũ Hành chuyển ba đào sóng dậy,
Trò phải tường che đậy hằng ngày;
Một đừng sát vật hại ai,
Sát mạng thường mạng xưa nay đã nhiều.
Loài máy cựa ấp yêu sự sống,
Cũng như người chớ vọng sát sanh;
Ngọn rau vô tội chớ hành,
Không ăn bao nở dạ đành chẳng thương!
Nhơn giữ vững bước đường ái chủng,
Vạn sanh linh trọng dụng chẳng chê;
Thương người đau khổ tư bề,
Thương người đói khó thảm thê ngoài đường.
Giữ vẹn vẻ lòng thương vạn loại,
Thì linh Tâm định lại từ bi;
Nghe Thầy giải đến thứ nhì:
Của người đừng có vân vi nơi lòng.
Muốn sanh quấy phải phòng sửa quấy,
Nghĩa sao đành lòng lấy vô can?
Chí công sửa tánh vững vàng,
Thì yên lòng dục tạng Can đã thành.
Thứ ba Lễ dạy rành con hiểu,
Chớ tà dâm phá khiếu quang minh;
Sửa cho ngay thẳng thật tình,
Vợ người cũng tỉ vợ mình chớ sai.
Nếu giữ vẹn Tinh sinh ra Khí,
Nguơn tạng Tì vẹn thủy hỏa hầu;
Thứ tư: Thầy dặn cạn sâu,
Chẳng nên uống rượu chớ âu giận người.
Rượu là nóng đủ mười mạnh bạo,
Uống vô rồi hết thảo hết trung;
Ðệ huynh phải vẹn thủy chung,
Trí thành Phế vẹn bao dung lỗi người,
Thứ năm: Thầy dạy bày đủ lẽ:
Chớ sai lời chẳng vẽ nhiều lòng;
Chí thành tâm thật là xong,
Tín ngay chẳng bợn xử lòng nhiễu nhương.
Tình liên hữu yêu thương một dạ,
Giữ vẹn hòa chớ khá lãng xao;
Hễ gìn chín chắn một màu,
Tạng Thận định đạt chẳng xao lậu mà!
Diệt phàm tánh lánh xa sắc dục,
Bỏ tà dâm un đúc tinh thần;
Lời vàng Thầy đã tỏ phân,
Trò tua nghe thửa khổ thân nâu sòng.
Khuyên trò phải sửa lòng ngay thảo,
Chiếu nương theo Tam Giáo dạy truyền,
Lần đi đạt đến bí truyền,
Hồi quang phản chiếu Ðạo truyền linh tâm.
Hôm sớm lo phù âm mộc dục,
Giữ đừng cho một bợn nhiễm thâm;
Thận thuộc thủy, hỏa thuộc tâm,
Kim mộc chớ trễ lạc lầm mà nguy.
Thầy chỉ sơ lần đi thấu đáo,
Nhơn đạo tròn rõ Ðạo Vô Vi;
Trò ôi rán chí tu trì,
Nhập định Thầy chỉ huyền vi khó nào!
Tại trò chẳng giồi trau phàm tánh,
Tại trò không xa lánh bốn rào;
Trò biết thấp, Thầy truyền cao,
Trò không rõ lý làm sao đặng thành?
Muốn thiên lý chớ tranh nhơn dục,
Muốn cảnh nhàn cõi tục phân ranh;
Chờ khi Tam Giáo luật hành,
Phải lo bổn phận tu hành nghe con!

Mười điều khuyến tu của Đức Chí Tôn


 

MƯỜI ĐIỀU KHUYẾN TU 

CỦA ĐỨC CHÍ TÔN

(Trích Thánh Giáo Sưu Tập)

 

Ðiều thứ nhứt: Thầy khuyên nên nhớ, 

Lòng trung kiên muôn thuở còn nêu;

Dầu ai nặng nhẹ trăm điều, 

Quyết không bỏ lý cao siêu của Thầỵ

Nhiều thử thách vây quanh con đó,

Nếu ngã lòng công khó tiêu tan;

Việc chi dầu ở trần gian,

 Là điều huyễn hoặc chớ mang nơi lòng.

Ðiều thứ hai: Thầy trông đệ tử, 

Tình bạn bè phải giữ thủy chung;

Luôn luôn tha thứ khoan dung, 

Nói năng nhỏ nhẹ chớ dùng lời thô. 

Dìu dắt nhau điểm tô công quả,

Phải thật hành với cả chung quanh; 

Thiệt thòi cam chịu đã đành,

Vô vi phẩm vị Thầy dành cho con.

Ðiều thứ ba: Vẹn tròn hạnh đức,

Tuy bán buôn cực khổ tảo tần;

Ðủ công nuôi nấng tấm thân, 

Ðừng ham những chuyện phi nhân gạt lường.

Dầu tiền bạc đầy rương tràn tủ,

Cuộc trần nầy chưa đủ con ơi!

 Ác gian cũng chỉ một đời,

Thà nghèo trong sạch thảnh thơi linh hồn.

 Ðiều thứ tư: Pháp môn qui luật,

Lục, thập trai cố sức trao dồi; 

Thịt thì xương máu tanh hôi, 

Cỏ cây rau cải cũng rồi bữa ăn. 

Ðức từ bi thường hằng thể hiện, 

Không sát sanh lòng thiện ta còn;

Lạt chay tuy chẳng ngọt ngon, 

Còn hơn thú vị cơm chan máu hồng.

Ðiều thứ năm: Quyết không hờn giận,

Ghét ganh chi cho bận lòng mình; 

Con xem vạn quyển Thiên Kinh,

Hiền nhân quân tử rộng tình ví câu.

 Muôn việc xảy bắt đầu phẫn nộ, 

Là nguyên nhân thống khổ ly tan;

Chơn truyền Pháp chánh Ðạo Vàng, 

Tập xong chữ Nhẫn Niết Bàn không xa.

Ðiều thứ sáu: Thiết tha Thầy dặn, 

Ngày hai thời lẳng lặng công phu;

Việc chi dầu quá cần cù, 

Cũng nhơn vài khắc tập Tu nguyện cầu.

Khi rảnh việc đồng sâu chợ búa,

Ðem sấm, kinh, thi... của Thầy ban; 

Học cho thông thuộc đôi hàng,

Ngâm nga trong lúc thanh nhàn bâng khuâng.

Ðiều thứ bảy: Quyết tăng công quả, 

Ta cứu người già cả ốm đau;

Tùy duyên có thể giúp vào,

Lâm cơn hoạn nạn khi nào cần con.

 Phước đức đó vẫn còn muôn thuở,

Tuy vô hình đừng ngỡ rằng không,

Con ôi! trong cõi trần hồng, 

Mấy ai nghĩ đến tấm lòng thanh cao.

Ðiều thứ tám: lời nào Thầy dạy,

 Dầu khổ đau chớ ngại công trình; 

Biết rằng con phải hy sinh,

Phật Tiên đâu nỡ quên tình hay sao?

 Ðừng chấp việc núi cao rừng thẳm,

Hãy dò đường muôn dặm xa trông; 

Nếu con thề giữ trọn lòng,

Ðương nhiên đắc Đạo thoát vòng tử sanh.

Ðiều thứ chín: Ðạo hành cơ bản, 

Giữ làm sao có bạn không thù;

Từ đây con nhớ rằng Tu,

Hạ mình nhận lỗi mặc dù là không. 

Lời nói sao hòa trong hiệp ngoại,

 Ðừng hơn người nếu phải ép lòng;

Không ham những chuyện mênh mông, 

Trừ no đủ ấm ép lòng mà chi.

Ðiều chót hết: Mười ghi trăm nhớ, 

Phật + Pháp + Tăng con chớ quên ơn; 

Gia đình nghĩa trọng nhiều hơn, 

Tình thương xã hội trong cơn thiết cần. 

Ơn Tổ Tiên dành phần con cháu,

Do những lời dạy bảo Thầy mong;

 Con ơi! Hãy khá ghi lòng,

Bấy nhiêu tâm huyết mấy dòng thi văn.

Bát Bửu: Hiếu, Để, Trung, Tín, Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ


BÁT BỬU
(Trích Kinh Tiểu Thừa Chơn Giáo)


HIẾU, ĐỂ, TRUNG, TÍN
Tý thời 20 tháng 8 năm Canh Tý.

THI
TÔN nghiêm truyền để bóng nhân hoàng,
LINH diệu xưa nay chẳng thế an;
THÁNH hóa Tam Kỳ soi đuốc ngọc,
ĐỨC thành chung hội tiếp cao ban.

TÔN LINH THÁNH ĐỨC, Bổn Thánh chào mừng chư chức sắc Thiên phong và toàn thể đạo tâm đẳng  đẳng. Giờ nay Bổn Thánh phụng chỉ DIÊU CUNG lâm đàn để góp phần xây dựng phẩm TIỂU THỪA CHƠN GIÁO. Đề tài Bổn Thánh sắp giải ra đây là "Bát Bửu" của các Đấng Chơn hồn đã thọ lãnh nơi THƯỢNG ĐẾ từ lúc sơ khai nhân loại. Đó là tám món báu để chư linh hồn giữ gìn trau  luyện cái phẩm Đạo vẹn toàn, nhưng vì trường đời tập nhiễm, vật dục dắt lần làm cho các món báu đều thất lạc. Vậy, giờ nay Bổn Thánh sẽ diễn đạt về "Hiếu, Để, Trung, Tín" và đàn mai sẽ có vị Thánh tiếp giảng về "Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ".
Sở dĩ con người xa lần đạo đức, mãi chịu trầm luân đều do sự biến động cõi lòng, xa rời Bát Bửu. Hôm nay, Đạo trường rộng mở báu pháp tiếp trao. Vậy tất cả hãy thu hồi trọn vẹn để bảo đảm cho công tu trong thời kỳ đại ân xá này.

THI BÀI
BÀI THỨ CHÍN: tiếp đề Bát Bửu,
Tám báu truyền qui tựu nhơn căn;
Ấy là lẽ sống lòng hằng,
Hóa Công ban đủ cơ năng phổ đồng.
Đem khái niệm Tây Đông truyền lại,
Đều một đường quảng đại đây thôi;
Xưa nay thừa tiếp bao hồi,
Hiển u chỉ tại dòng trôi tục đời.
Thật lẽ sống hợp thời ai cũng,
"Hiếu" để mà thừa phụng nghĩa thân;
Nuôi con đợi thuở quá tuần,
Sương mai nhờ bóng tử thần tựa nương.
Hiếu đạo vốn cang thường số một,
Luận cho thông, cho tột lẽ mầu;
Để đền đáp lại ân sâu,
Công sanh, công dưỡng dãi dầu biết bao.
Việc thảo thân đi vào chi tiết,
Đủ hai phần thuần khiết mới nên;
Tinh thần vật chất vững bền,
Phú, bần cảnh ngộ đối trên lập trường.
Ngày tiếp xử kính thương trọn cả,
Bữa uống ăn cung hạ bảo toàn;
Nhỏ còn đi học phải ngoan,
Học cho thành đạt mở mang nghiệp nhà.
Kịp lớn khôn lần qua nhiệm vụ,
Nuôi mẹ cha chí thú đêm ngày;
Noi gương Thánh triết thảo ngay,
Nhị Thập Tứ Hiếu giải bày tâm cang.
Đem thân sống bảo toàn hiếu đạo,
Nguyễn Ánh xưa đuổi báo cứu cha;
Mạch lòng chảy suốt phu bì,
Tử sanh nguyện đáp ân vì tạo đoan.
Trước Thiên trách mở mang trần hạ,
Ích lợi chung cho cả quần sanh;
Kìa gương KHỔNG THÁNH lưu hành,
Suốt đời truyền Đạo định thành hiếu thân.
Nếp gia thinh muôn tầng không sánh,
Dễ mang câu bất chánh bất nhân;
Nếu mà cha mẹ bần thần,
Đâu còn hiếu đạo, nghĩa thân trọn gìn.
Học thấu đáo tường minh yếu lý,
Nữ như nam nghiệm kỹ suy cùng;
Hoàn thành nhiệm vụ thủy chung,
Hiếu mà giữ trọn mới tùng nghĩa phương.
Người thế gian phải tường chữ hiếu,
Nơi Đạo tràng mở khiếu lên cao;
Hiếu thân truyền cảm rạc rào,
Ấy đường chánh đại Trời trao lẽ thường.
"Để" là thuận lập trường hòa ái,
Cùng đệ huynh phải trái luận bàn;
Thuận rồi rõ lý vinh quang,
Phước nhà đầm ấm cơ hàn có nhau.
Trong gia đình đượm màu son sắt,
Giữa nhân quần siết chặt tình thương;
Thuận hiền tiếp mối chơn dương,
Hỏa tình khỏi động nhiễu nhương đêm ngày.
"Để" không phải xuôi tay chìu quấy,
Thuận đây là giữ lấy ôn lương;
Quảng hành độ hướng khai trương,
Từ trong nghịch cảnh mở đường thuận thân.
Bởi thế nên người cần chữ để,
Việc xử giao mới thể hảo toàn;
Đạo đời tương đắc hòa an,
Xác hồn trực tiếp bên màn thiên lương.
"Trung" là ngay can trường lập chí,
Ngay thẳng lòng nuôi kỹ lý chân;
Đức Trung, ai cũng thấy cần,
Nhưng vì bả lợi khó gần được Trung.
Trung ấy được thủy chung như nhứt,
Trung để cho trọn chức vụ người;
Trung thành đượm vẻ thắm tươi,
Quốc dân niềm nở vui cười thân yêu.
Xưa Bình Trọng không xiêu Thần sắc,
Cùng Triệu, Trưng cân quắc so bì;
Cam La còn tiếng sử ghi,
Cái gương trung, nghĩa duy trì muôn năm.
Trung đối cảnh suy tầm cội rễ,
Trung vì dân há dễ vì ai;
Xưa nay biết mấy anh tài,
Giúp người sai Đạo bỏ hoài công phu.
Chữ Trung để đền bù nghĩa cả,
Đạo phu thê như lá với cành;
Trọn lời nguyện hiệp duyên lành,
Vợ hiền tiếng tốt mới thành tiết trung.
Lời can gián thẳng dùn phải cách,
Cho người trên phân tách hiểu rành;
Tránh xa tội lỗi hư danh,
Ấy trung biểu lộ thực hành dạ ngay.
Trong cửa Đạo càng dày đức cả,
Đối Hồn Thiêng như cá nước hồ;
Phỏng mà nắng hạn nước khô,
Nước khô cá phải lần vô cảnh cùng.
Đây chữ Trung đem dùng thực tại,
Mỗi nhơn sanh còn phải học hành;
Để cho thể ngọc long lanh,
Đạo nhà tô điểm, trung thành lý đương.
Trung tóm lại là phương hướng thẳng,
Người có trung mới đặng toàn danh;
Chữ trung đi với chữ thành,
Trung thành tươi đẹp như tranh trong tường.
"Tín" là tin, tin thường hay mất,
Vì người nay chưa thật lòng tin;
Đúng ra tin quý vô cùng,
Thánh hiền còn để đức tin lâu dài.
Tín đâu có lời sai qua lại,
Tín nơi mình nói phải làm ngay;
Không ham danh lợi tiền tài,
Để cho thất tín ngày mai khó tìm.
Mình trọn tin, tin thâm người khác,
Có tin người mới đạt lòng nhau;
Tạo nên truyền cảm sang giàu,
Giữa người chung sống một màu thiệt ngay.
Chữ Tín ấy sao hay ho quá,
Thu phục rồi chí cả lên cao;
Vì rằng tín thật dồi dào,
Dễ ai đã dám xen vào thất ngôn.
Nên chữ Tín bảo tồn thân lập,
Muốn lập thân phải tập tín thành;
Một đời chân thật nên danh,
Nghiêm trang thể cách thông hành gần xa.
Trọng chữ Tín đời ta tươi đẹp,
Lời thốt ra như chép ghi lòng;
Dầu cho muôn lượng vàng rồng.
Không mua được cái "ừ" xong đã rồi.
Bởi đời nay lôi thôi quá lẽ,
Trong một giờ chia sẻ nhiều nơi;
Nói ra ít nhớ lại lời,
Vui, buồn, sai khiến quảng đời éo le.
Nạn thất tín cười khè bên khóc,
Giữa lớp người hằn hộc giả tâm;
Lưỡi môi đưa đẩy lầm thầm,
lòng chẳng thiệt, mưu tầm kế gian.
Nay chữ Tín đạo tràng đem lại,
Để cùng nhau điểm sái tâm linh;
Dầu cho người có giả tình,
Ta đem chữ Tín mà chinh phục đời.
Quyết cho đặng sáng ngời chữ Tín,
Có tin rồi mới định phẩm cao;
Phẩm đời đã trọn thân giao,
Phẩm Tiên tiếp mối bước vào thiền tâm.
Bài giảng Hiếu,  Để, Trung, Tín, đến đây  đã hết, vậy Bổn Thánh  chào tất cả đàn tiền. Thăng.

BÁT BỬU (Tiếp theo)

LỄ, NGHĨA, LIÊM, SỈ
Tý thời 21-8 năm Canh Tý.

THI
DIỆU giải cho nhau một cõi lòng,
LINH truyền cao độ pháp tinh thông;
THÁNH nhơn khai hóa cơ thường lạc,
ĐỨC hiệp hòa minh lý chánh tông.

DIỆU LINH THÁNH ĐỨC thân chào chư chức sắc đàn tiền đạo tâm nam nữ. Giờ nay, TÔN THÁNH thừa lịnh tiếp dạy bài BÁT BỬU về LỄ, NGHĨA, LIÊM,  SỈ. Vậy đàn tiền tịnh tọa.

THI BÀI
"Lễ" là cái phương châm tiếp xử,
Cho thế gian vinh dự sống đời;
Giữa người hội diện chiều mơi,
Tôn ty phải cách sáng ngời nhơn phong.
Lý trật tự hợp đồng đại thể,
Sống điều hòa do lễ mà ra;
Lễ nghi vốn thiệt báu nhà,
Đông Tây hảo hiệp đậm đà sắc giao.
Người có lễ tăng cao phẩm giá,
Lễ trọng người, người trả lễ an;
Kính nhơn, nhơn kính rõ ràng,
Tùy cơ thủ xử thuận đàng dưới trên.
Lễ giữ Đạo không quên sùng bái,
Thờ mẹ cha lễ giải trọng tôn;
Đệ huynh thừa tiếp ôn tồn,
Phu thê tùy xướng ngữ ngôn thuận hiền.
Ngoài xã hội, lễ yên định hướng,
Việc tiếp giao lễ trưởng đức thành;
Xưa nay mấy bực trứ danh,
Sống trong lễ nghĩa phân ranh tục đời
Nếu thiếu lễ Phật Trời chẳng kính,
Chẳng tôn ti liều lĩnh sang ngang,
Khác nào bánh vẽ trên bàn;
Đói ăn không được, dở dang thay là.
Người đời nay bôn ba vật chất,
Lễ báu truyền xem mất phần đông;
Lại cho phép Đạo không thông,
Đưa người vào chỗ cuồng ngông thấp hèn.
Cũng bởi thế đua chen sôi nổi,
Mất lịch xinh giữa hội cao đàm;
Múa men nóng nẩy sân tham,
Dung nghi hỗn độn nâu chàm sắc pha.
Nay yếu lý truyền ra dạy kỹ,
Lễ trước tiên tỷ mỷ tập tành;
Tề gia, xử thế hội thành,
Là phần căn bản chúng sanh phải làm.
Đem chữ lễ luận đàm mọi lẽ,
Từng cơ vi tiết thể ngoài lòng;
Cho nhau tất cả thuộc lòng,
Nhứt ngôn, nhứt động hợp dòng lễ nghi.
"Nghĩa" vụ ấy tường tri yếu giải,
Nghĩa đây là việc phải cần làm;
Mới tròn trách nhiệm thế gian,
Tinh thần nghĩa khí dẫn đàng lối chung.
Người thượng nghĩa biết dùng sức mạnh,
Biết đem thân trước cảnh xâm lăng;
Ra tay giúp kẻ yếu hèn,
Làm nên việc nghĩa so bằng vàng muôn.
Vợ biết nghĩa không buồn tủi phận,
Trước tình nhà lận đận khổ đau;
Bạn bè chẳng kể sang giàu,
Nghĩa hành chung thủy có nhau buổi cùng.
Nghĩa đượm cả hình dung thần sắc,
Cho thế gian siết chặt niềm thân;
Xưa nay nghĩa trọng vô ngần,
Tùy thời sử dụng nghĩa lần hiện sanh.
Bởi thế nên, nghĩa thành đại thế,
Người sanh ra nghĩa để sống đời;
Nghĩa làm nhiệm vụ chiều mơi,
Nghĩa trong chí cả giúp người nên danh.
Người thiếu nghĩa như tranh thiếu cảnh,
Chẳng vị tha chỉ lãnh phần mình;
Thiệt là mờ mịt nan minh,
Quên Thầy, quên bạn, quên tình cha con.
Thử xét nay nghĩa còn hay mất,
Nếu nghĩa đồng đời thật tốt thay;
Hay là chỉ ở bên ngoài,
Mà lòng nhợt nhạt mặc ai nghĩa tình.
Đây trường Đạo khai minh đại thể,
Truyền cho nhau góp để nghĩa nồng;
Trong ngày lập chí đề công,
Mở mang phước thiện gọi lòng phát sanh.
Dạy cho nhau học thành nghĩa cả,
Giữa Đạo nhà một dạ thương yêu;
Đệ huynh lớn nhỏ dắt dìu,
Giúp vùa đạm bạc cao nêu tinh thần.
Làm được nghĩa trọn phần nhơn phẩm,
Nghĩa có làm mới ấm hòa phong;
Mới nêu danh thể cao tông,
Còn ngày dự thưởng phước hồng ân Thiên.
"Liêm" tận giải mối giềng thanh bạch,
Liêm suốt đời trong sạch không tham;
Tánh liêm ai cũng muốn làm,
Ngặt vì bả lợi còn ham khó thành.
Làm được liêm, thanh danh rạng tiếng,
Liêm giữ tròn phát triển lòng nhân;
Xưa kia mấy bực Thánh, Thần,
Một đời liêm khiết trong ngần sáng soi.
Đứng trước cảnh vàng thoi bạc nén,
Lòng thản nhiên mới vẹn hiếu trung;
Sống trong quyền tước nói chung,
Chữ liêm thiệt quý vô cùng khó mua.
Liêm ví tợ lá bùa hộ mạng,
Người có liêm mới hản là Thiên;
Xưa kia có Lỗ Trọng Liêng,
Không dùng của Lễ định yên lòng người.
Liêm tư chất vốn Trời ban sẵn,
Cho thế gian hưởng đặng thanh bình;
Ở ăn là việc thường tình,
Liêm không buộc lận giữ mình phần hơn.
Xét đời nay lòng nhơn đã thiếu,
Nên tiết liêm khó hiểu được rành;
Tưởng rằng sống để cạnh tranh,
Thua hơn quyền tước đủ vành tham gian.
Bởi thiếu liêm, người toan làm dữ,
Sương hơi mồi chẳng cứ lòng nhân;
Muốn cho ổn định cuộc trần,
Chữ liêm truyền để đôi vần thô sơ.
Trong cửa Đạo tôn thờ đại nghĩa,
Quyết từ nay gieo tỉa giống lành;
Tu thân đề khởi thực hành,
Cho liêm đức sáng truyền thành giác linh.
"Sỉ" là hổ, hổ mình quấy quá,
Biết hổ hem chơn giả mới rành;
Hổ vì chưa trọn đức lành,
Chưa thông đạo lý, chưa thành lương tri.
Thiếu thảo thân so bì tủi nhục,
Mất thuận hòa một khúc càng đau;
Chưa trung dạ héo gan xào,
Một lời thất tín trước sau hổ thầm.
Lễ chẳng trọn trầm ngâm thô bỉ,
Nghĩa chưa thành khắc kỷ xấu xa;
Liêm còn ẩn ánh lòng ta,
Sỉ đời thấp kém khó mà nên thân.
Người biết sỉ học lần tiến hóa,
Kẻ không ngơ như đã mất hồn;
Đường đời bao lớp dại khôn,
Nghiệm suy cho rõ bảo tồn lương năng.
Đạo luận giải sỉ tăng cao độ,
Tu luyện nên khỏi hổ công truyền;
Lý Trời đem lại cho nguyên,
Trong ngày mẫn cán thường xuyên trau giồi.
Tám báu linh thu hồi toàn diện,
Làm pháp môn vận chuyển linh căn;
Noi theo đại lộ hóa hoằng,
Theo nguồn quang tuyến huệ đăng sưởi hồn.
Mong sao tất cả cao tôn.

THI
Cao tôn phép báu giải oan khiên,
Thường bữa trau giồi chí nhẫn kiên;
Hiếu, Để gia phong tô đậm nét,
Tín, Trung, hoạt cảnh điểm thêm duyên.
Lễ nghi chỉnh lại đời thô nghịch,
Liêm, Sỉ, thâu về khí hạo nhiên;
Cho rõ Kỳ Ba Trời cứu thế,
Định an sanh chúng lý công truyền.

Bài giải của Tôn Thánh tới đây đã hết, nghỉ 5 phút  tái cầu. Tôn Thánh chào tất cả. Tôn Thánh thăng.