Thứ Bảy, 6 tháng 11, 2010

Địa Ngục ký hay Cô Ba cháo gà nói chuyện Âm Phủ





LỜI ĐỨC MẸ DẠY 
KHUYÊN ĂN CHAY VÀ CẤM SÁT SANH


Lắm phen rồi Mẹ khuyên chay lạt,
Gốc gì đâu sanh sát cấm ngăn?
Cũng tình liên lạc đồng bằng,
Thú cầm vẫn thể linh căn Thượng Hoàng.
Bởi chưng thú chẳng quang minh lắm,
Cần trau tria rửa tắm nhiều giờ;
Với con là lũ em thơ,
Nỡ nào nhìn nhỏ xác xơ thân hình?
Tuy chẳng nói thân hình giống tạc,
Cũng biết ăn, biết khát, biết đau;
Phơi da, lóc thịt làm sao?
Con ôi! Sao uống huyết đào đàn em?
Nhìn con thú sắp đem làm thịt,
Vây quanh mình đen nghịt những người ;
Tay dao, tay búa, nói cười,
Thú kêu thảm thiết, nhìn người van lơn!
Xin ai chút lòng nhơn bác-ái,
Thả tôi ra, tôi chạy thăm con;
Trẻ trông, trẻ sợ gầy mòn,
Ơn nầy ghi tạc, trả tròn ngày sau!
Mặc cho thú lệ trào buồn bã,
Những người kia nghiêng ngã reo hò;
Vô tình huơ búa vo vo,
Biết đâu lòng thú quá lo, quá sầu!
Khi mạnh khỏe kê đầu làm việc,
Giúp đỡ người chẳng biết kêu la;
Dầm sương, giãi nắng, phơi da,
Sống làm tôi mọi, thác già xẻ thây!
Rồng, cọp dữ nơi đây không sánh,
Người cầm dao giết đánh thú cầm;
Ăn ngon sướng miệng bao năm,
Hờn kia, oán nọ, ngàn năm còn hoài!
Thượng Đế sanh muôn loài vạn vật,
Chiết Chơn Thần ẩn cất bên trong;
Bởi nên những kẻ ác lòng,
Giết loài cầm thú, sân rồng tội căn!
Con nên hiểu mỗi lần giết thú,
Là con làm hại đủ Thượng Thiên;
Sát sanh, hại vật nên kiêng,
Ấy điều thứ nhứt dạy riêng năm lần!!!
Tự so sánh xác thân cái máy,
Mỗi ngày đi, vẫn chạy, vẫn xoay;
Hao lần mòn mỏi hư trầy,
Phải cần dầu mở chế đầy mới thông.
Muốn linh hồn “cõi không” siêu thoát,
Thì phải toan chay lạt mới mau;
Mỗi giờ luyện Đạo giồi trau,
Nhẹ nhàng xác khí, ra vào thông thương.
Trích Khuyến Nữ Hồi Tâm Kinh


Kính chào quý anh chị em!
Chánh Tuân rất tâm đắc đoạn Thánh giáo nói trên, và, cũng thật tình cờ gần đây Chánh Tuân đọc được quyển “Cô Ba cháo gà nói chuyện Âm phủ” do Thích Nhựt Long lược ký, Chánh Tuân nhận thấy trong cuốn sách ấy có nhiều điểm tương đồng với lời dạy của đức Mẹ về việc khuyên ăn chay, cấm sát sanh và có một số điểm tương đồng với nội dung bài kinh sám hối dài nên Chánh Tuân đánh máy lại nguyên văn quyển sách này để gửi đến quý anh chị em cùng tham khảo.
Chánh Tuân chỉ ước mong sao sau khi đọc qua cuốn sách này, tất cả quý anh chị em chúng ta không còn ai phạm vào giới sát sanh hại vật nữa. Nếu quý anh chị em nào thấy cuốn sách này hữu ích cho những người thân của mình đang làm nghề sát sanh hại vật thì coppy về in ra cho họ cùng đọc.
Chánh Tuân.





PHẬT LỊCH - KỶ DẬU
-2513 –1969-











ĐỊA NGỤC KÝ
HAY LÀ
Cô Ba Cháo Gà nói chuyện Âm Phủ










THÍCH NHỰT LONG lược ký



LIÊN HOA TỊNH THẤT
159/28, Pasteur - Mỹ Tho


THAY LỜI TỰA


Học cổ rằng:
“Lênh đênh qua cửa Phù đồ,
Khéo tu thì nỗi, vụng tu thì chìm”
Thế mà chẳng biết nỗi lên đâu? Chìm xuống đâu? Khéo tu những gì? Vụng tu là sao?
Đến Biên Hòa ghé nhà thờ Thủ Huồn: “Làm giàu thất đức, chiêm bao xuống địa ngục thấy gông to, tỉnh giấc sợ hãi, biết ăn năng tu phước sau xuống địa ngục (Địa ngục: Chỗ linh hồn người ác phải chịu hình phạt sau khi chết. Địa phủ có 136 tầng ngục hễ người sinh tiền làm những điều ác thì khi chết linh hồn phải vào cốn ấy) thấy gông đã tiêu mất”. Như vậy vụng tu là kẻ lầm lạc tội lỗi, chìm tức là chìm xuống địa ngục.
Nghiệm kim rằng: “Ở Vong Nhỏ Mỹ Tho có Cô Ba cháo gà chết đi, thần hồn xuống địa ngục, tỉnh dậy sợ hãi lo tu hành và khuyên người đời hướng thiện. Học cổ nghiệm kim đều nhận có địa ngục.
Địa ngục, âm phủ, danh từ này không phải xuất xứ ở tôn giáo, mặc dù tôn giáo nào cũng nhìn nhận có địa ngục, âm phủ. Nguyên do ảnh hưởng tương đối, với sự nhận xét của con người, cho nên có danh từ này là sự thật có. Như ngước lên người ta thấy cao xanh, thanh bạch, nhìn xuống thấy hỗn loạn ô trược. Do đó người ta đã có một khái niệm rõ rệt về âm dương hay Thiên đường Địa ngục.
Lão giáo cho rằng: Khinh quang thăng thượng, trông ám trầm hạ, tức âm dương lưỡng nghi”. Thế thì Dương thượng là Trời, đạo Gia Tô gọi là Thiên Đàng, Nho gọi là Trời (Thiên).
Đạo Phật nói: Ba cõi: Dục giới, sắc giới, vô sắc giới, cộng chung có hai mưoi tám cõi trời. Đạo Bà La Môn gọi là Phạm Thiên .v.v…
Dựa vào thuyết ức đoán của số ít thì người nông cạn nói rằng “Địa ngục hay âm phủ là ở dưới đất, thế mà khoa học đã khoan sâu xuống đất sao không đụng nóc nhà Diêm chúa?” Chớ họ đâu có biết chữ Địa có nghĩa là Địa phương, chữ ngục là đen tối, âm phủ cũng là đen tối, nghĩa là một phương nào đen tối, đầy hỗn loạn, ô trược, khổ não, nơi đó là địa ngục.
- THUYẾT ĐỊA NGỤC CỦA ĐẠO LÃO: Đạo Lão đã ám chỉ Địa Ngục: Nhìn thấy cảnh giả tạm vô thường của trần gian, cảnh khổ Địa ngục, nên chán nản thế sự phù ba mà lo tu tỉnh, ưa thăng, sợ trầm, nên trong Đạo Đức kinh có ghi: “Theo cách tự nhiên thanh tỉnh, không cần phải làm gì, nghĩa là muôn việc cứ phó mặc tự nhiên, không cần phải lo lắng nghĩ ngợi, mới hưởng được sự khoái lạc tiêu diêu”. (Theo Việt Nam Văn học sử yếu, in lần 5, trang 66).
- THUYẾT  ĐỊA NGỤC CỦA NHO GIÁO: Theo vua Phục Hy (2852 – 2737) đã tìm ra âm dương Thiên Đàng, Địa Ngục: Một đêm nhà vua nằm mộng, thấy con Long Mã lội qua sông Hoàng Hà chở trên lưng một hà đồ có những chấm đen chấm trắng, tương đối thành 2 hình, lưỡng nghi: đen là âm, trắng là dương. Do đó mà phân tích được Thiên đàng, Địa ngục.
- THUYẾT ĐỊA NGỤC CỦA PHẬT GIÁO HÒA HẢO:
Quyển giáo lý trang 138 có câu:
“Cho Dương trần rõ luật Thiên công,
Có Địa ngục Thiên đàng hay chẳng?”
- THUYẾT ĐỊA NGỤC CỦA CAO ĐÀI GIÁO:
Trong bài sám hối có câu:
“Hình bào lạc cột đồng vòi vọi,
Đốt lửa hồng ánh chói sáng loà;
Trói người vào đó xát chà,
Vì chưng hung bạo đốt nhà bắn săn”.
Hay câu:
Cầu Nại Hà bắt giăng sông lớn,
Tội nhơn qua ốc rởn cùng mình;
Sụp chơn ván lại gập ghình,
Nhào đầu xuống đó cua kình rỉa thây”.
- THUYẾT ĐỊA NGỤC CỦA THIÊN CHÚA GIÁO: Người theo đạo Thiên Chúa nói riêng, tất cả mọi người nói chung, dường như ai cũng thuộc lòng câu: “Ai làm lành tin theo Chúa thì được lên Thiên đàng, ai làm ác phải bị phạt nơi Hỏa ngục”.
- THUYẾT ĐỊA NGỤC CỦA HỒI GIÁO: “Tất cả bảy trời và bảy đất, bảy lớp lồng lớp nọ lên lớp kia thành bảy tầng và ở trên là một đại dương ánh sáng, rồi đến nhiều miền khí nhẹ trước khi đến Thiên Đường, có bảy khu riêng biệt, dưới đất ta ở là Địa ngục, và có tất cả là sáu địa ngục, Trời Đất đã được Allah làm trong sáu ngày. (Theo tín ngưỡng V.N. quyển hạ trang III).
- THUYẾT ĐỊA NGỤC CỦA  ĐẠO PHẬT:
Theo duy thức luận: “ Nhứt thiên tâm, vạn pháp duy thức”, Thiên đàng, Địa ngục đều do tâm tạo cho đến siêu lên giải thoát thành Phật cũng do tâm, những hiện cảnh đang thấy đây và Địa ngục Thiên đàng xa xôi thanh bạch kia cũng do tâm tạo ra cả.
Theo nguyên nhân luận: trong một thế giới, ở giữa có núi Tu di, bề cao 84.000 do tuần, bề sâu 84.000 do tuần, vòng quanh có bảy dòng biển hương thủy. Phía Bắc có quả đất gọi là Bắc Cu lô châu, phía Nam có Nam Thiệm bộ châu, tức là quả đất ta ở, Đông có Đông thắng thần châu, Tây có Tây ngưu hoá châu. Vòng ngoài là hàm hải. Ngoài nữa có bảy vòng núi thiết vi bao bọc bên ngoài, ở dưới đáy núi Thiết Vi là Địa ngục. Địa ngục rất rộng lớn, ở đây chỉ lược nói.
Tóm lại các tôn giáo đều nhận quả thuyết rằng: “Có Địa ngục”, người ngoài tôn giáo kém lòng tin cũng phải nhận có Địa ngục, như: hiện cảnh nơi các khám đường, những người có bổn phận điều tra giám sát hiện nay, họ đâu có thù oán gì mà cứ tra tấn tội nhơn, cũng như quỷ sứ hiện tại há thù hiềm gì với vong giả mà cứ cưa xẻ đánh đập như vậy, đó là oan gia thù đối nhiều kiếp, nên tạo ra cảnh khám đường cũng như Địa ngục, nên Nho có câu: “Dương gian âm phủ đồng nhứt lý”.
Thích nữ Huệ Hiền, tục danh Cô Ba cháo gà đã thật chứng kiến về việc âm phủ rõ ràng, cho nên sợ hải, từ đó tu hành quyết lo dứt sách nghiệp chướng oan khiên, đã tự lợi bao nỡ điềm nhiên chẳng vì tha lợi, nên cô đã đem việc nầy nhắc nhở cho người đời sớm mau thức tỉnh, kẻo để đến lúc ăn năn rất muộn.
Vì có người nghe, thấy, biết kể về âm phủ trúng chứng bệnh của mình, nhưng cũng cứ chạy theo danh lợi nên làm càn nói bướng, cho rằng: “Thuyết của Cô Ba cháo gà là mị ngữ tà đạo”.
Thưa quý vị, mị ngữ tà đạo là gì? Theo tôi thì: “Lời nói nhắc nhở khuyên người tu thiện dứt dữ, không phải là mị, thuyết địa ngục đều được người đời cho đến tô giáo đều nhìn nhận không phải là tà ma”.
Vì tự lợi, lợi tha nên không nề lời phê phán, tôi lược ký thuyết Địa ngục do Cô Ba cháo gà kể lại, để cống hiến cho quý vị  sớm suy xét tu hành, hầu mong khỏi tội lỗi đọa lạc.
THÍCH NHỰT LONG cẩn chí.








TỰ TRẦN
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT.

Bạch Thầy,
Trước kia con là người đại ác, nhưng sớm thức tỉnh tu hành, theo Phật, Pháp, Tăng, trong lúc hành đạo con đã trãi qua bao thử thách đắng cay. Số mình dốt nát, Kinh, Luật chẳng thông, phiền một nỗi tuổi già tu muộn. Ngoài đời khảo đảo, trong đạo lại mỉa mai, biết mình nghiệp nặng, kiếp trước vụng tu. Nên con có nguyện cùng mười phương chư Phật cho con được trả hết nghiệp trong một kiếp này, mong nhờ kiếp sau trong sạch mà đi ngay vào đường đạo, không còn bị oan gia dẫn dắt, nghiệp chướng kéo lôi.
Vì lời đại nguyện đắc thành, nên Diêm chúa cho bắt hồn con xuống địa ngục để xử án. Ôi, vì mình tạo ác nên phải trả nghiệp thật quá xót xa tê tái. Nào trầm mình nơi biển lạnh, thân thể cứng đờ, nào bị bầy gà, vịt mổ đá, cắn xé tơi bời, nào nuốt lửa toàn thân lên khói, nào ngất xỉu nơi ngục thứ bảy: vì thấy sự hành phạt quá gớm ghê, nào phải vào núi lửa ở cửa ngục thứ mười, tưởng đâu thân này ra tro mạt.
Đáng lý con phải chết luôn, nhưng ơn trên thấy chúng sanh đời mạt pháp, tội ác chập chồng, không tin nhân quả, tưởng đâu chết rồi là hết nên cho con sống lại để nói chuyện Địa ngục, hầu nhắc nhở bà con, cô bác sớm thức tỉnh tu hành.
Đến khi trở về cõi thế, thân con còn phải mang câm, điếc. Thế mà lắm người nông nỗi, cho con là tà đạo, dùng lời giả dối để mê hoặc chúng sanh. Như uống nước: nóng hay lạnh tự mình biết lấy, chớ việc chánh tà lý đạo đã quá phân minh.
Con nghĩ, đạo Phật là đạo từ bi, lòng xót thương vạn loài đang  lặn hụp trong biển khổ sông mê, đồng thời tìm phương giải cứu, để tận diệt gốc khổ cho chúng sanh. Xét vậy dù cao hay thấp, dù thật hay huyền diệu, đều đồng một mục đích dẫn dắt chúng sanh đến bờ giác ngộ giải thoát.
Mô Phật,
Nhưng hôm nay thầy chẳng đắn đo lời thề, gạt bỏ tiếng thị phi, cho phép con kể chuyện Địa ngục cho thầy nghe, nhờ thầy chứng minh cho con, nếu con chánh thì thầy bảo con kể để nhắc nhở bà con, cô bác tu hành, còn như tà mị thầy dạy con không nói nữa.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
THÍCH NỮ HUỆ HIỀN KÍNH BÚT
TỤC DANH CÔ BA CHÁO GÀ




LƯỢC KÝ
CÔ BA CHÁO GÀ DU ÂM PHỦ


NẰM MỘNG
Nam mô A Di Đà Phật, nay tôi xin nói chuyện Địa ngục, vì người thế gian ít biết về Địa ngục được. Nhân vì tôi là người đại ác, Diêm chúa cho người bắt tôi xuống Địa ngục, hôm nay tôi đặng về đây là do một đại nguyện và nhân duyên như sau: Trở về cõi Diêm phù này là để nói cho Cô, Bác được rõ về những tội phước của tôi như thế nào, tại sao tôi phải đi Địa ngục?.
Tôi đi Địa ngục là đền tội lỗi và nhờ lực nguyện có duyên lành để nói lại cho Cô, Bác biết sự quả báo, phòng tránh làm việc sát sanh hại mạng không phạm tội sa Địa ngục như tôi. Trước khi đi Địa ngục có nguyên nhân: vì tôi là Cô Ba Cháo Gà ở chợ Vòng Nhỏ, một vùng chợ Mỹ Tho, danh từ này ai cũng đều biết. Tôi bán cháo gà một thời gian từ năm Ngọ đến cuối năm Mùi gần ngót 18 tháng. Ngày 16 tháng 11 rạng 17, tôi định sắp sửa nấu cháo gà. Trong đêm đó tôi nằm mộng thấy cắt cổ một con gà mà nó hiện làm người ta, khi đó tôi nói: “ủa tại sao ông thành người ta, làm sao tôi nhúng nước sôi cho được?” Ông ấy đáp: “Mầy chết, chớ nhúng nước sôi, tao là ông nội của mày đây!”. Tôi hỏi: “Ông nói tôi không tin, ông nội tôi sao lại không giống?” Ông đáp: “Giống sao được, vì hồi còn sống, ông nội sát sanh hại mạng cũng nhiều, khi chết, con cháu lại làm heo, bò, gà, vịt để lo tống táng. Cho nên ông làm thú biết bao nhiêu kiếp mà trả chưa xong, vì thay hồn đổi xác nhiều đời làm sao giống được mà con biết. May nhiều đời trước có chút công tu nên được Diêm chúa cho về bảo con cháu biết. Con ráng tu đừng sát sanh hại vật phải đoạ Địa ngục như ông quá khổ sở”. Tôi hỏi: “Ông nói tôi cũng chưa tin, ông tên gì?”. Ông đáp: “Ông là Huỳnh Văn Vấp, cha mầy là Huỳnh Văn Thình, mầy là Huỳnh Thị Nhi, con tin chưa?” Tôi đáp: “Ông nói đúng sự thật nhưng thấy tướng mạo tôi còn nghi.” Ông bèn tiếp: “Thôi con ráng tu đi rồi biết, chớ đừng nghi, ông cho con hay, con tội lỗi rất nhiều, vì sát sanh không những gà, vịt mà thôi, cho đến trùng, dế, kiến, chuột bọ, rắn rít đều có tội hết. Con cố gắng tu đi để cầu siêu cho ông với”. Đến đây, đồng hồ ré, tôi giựt mình xem đúng 3 giờ khuya. Thường thì nấu cháo gà cũng giờ đó, và ngày đó lại nhằm ngày 17 tháng 11 vía Phật A Di Đà. Tôi liền đem gà bán hết và không làm nghề nấu cháo gà nữa, bắt đầu ăn chay trường tụng kinh, trải 6 năm như vậy.

CHẾT ĐI ĐỊA NGỤC LẦN THỨ NHỨT
Thời gian sáu, bảy năm tu cư sĩ tại gia, thường ngày tụng kinh Di Đà, Phổ Môn và niệm Phật, lần lần tụng đến kinh Địa Tạng, Pháp Hoa. Tính ra từ ngày 17 tháng 11 năm Mùi đến ngày 23 tháng 4 năm Dần, khi đó vào lúc 6 giờ chiều, tôi đang ngồi niệm Phật, bỗng thấy từ đâu chẳng biết, đứng sững trước mặt tôi một vị mặt đen như than, lớn tợ mâm, bụng bự chòm hòm, muốn chụp tôi. Sợ quá tôi la oai oái náo động cả xóm, rồi té xuống đất bất tỉnh. Bỗng nghe tiếng con kêu khóc thấy mình đang đứng trước cửa, có một số người rất đông, biết đây là người âm chớ không phải người dương, là ma quỷ gì đây, tôi không rõ. Họ đang xầm xì với nhau. Nhìn trong nhà thấy con tôi đang ôm đầu khóc thảm và kêu: “má, má”. Còn lối xóm, người đánh lưng bóp cẳng, thoa tay cạo gió đủ thứ. Tôi rất đau lòng biết mình đã chết, có lẽ vì công tu quá ít mà tội lỗi thì nhiều, thôi bây giờ ráng niệm Phật, xin Phật cứu độ cho, chớ không dám nhìn vào xác nữa. Khi nhìn ra ngoài niệm Phật thì thấy các vị Thần đổi sắc mặt, vui vẻ kêu tôi: “Sư nữ, sư nữ, ngài hãy bắt hơi thở đi”. Mình suy nghĩ có lẽ ma hay quỷ gạt mình đặng bắt hồn mình chớ gì, bèn nói: “các ngài làm trước rồi tôi làm sau”, khi ấy tôi thấy các vị Thần đều hoà hơi thở như lúc ngồi thiền, tôi liền làm theo. Có một vị cõng tôi lên, các vị khác xách tay tôi bay bổng lên mây hướng về phía Tây Nam lướt tới có 6 vị đi trước, 6 vị ở giữa với tôi và 6 vị đi sau, trải qua mấy lớp mây rồi đáp xuống. Lúc ấy tôi nghe chư Thần nói tới ranh giới nước Mã Lai, tôi nhìn xuống vẫn còn thấy nhà cửa cây cối, ruộng vườn, kẻ qua người lại, bay một lúc nữa thì thấy biển mênh mông, những cù lao rải rác đó đây, lô nhô dưới  biển, tàu bè xuôi ngược, đèn đuốc lập lòe, vì trời đã tối. Bay một đỗi xa hơn, không còn thấy chi nữa, chỉ toàn là biển cả mênh mông, mây nước một màu, bầu trời đen hẩm thật lạnh lùng khiếp sợ. Bay một lúc lâu tuyết xuống dày đặc cả mình lạnh buốt, tay chân tê cứng chịu không nỗi, nên buông tay nhào xuống biển.
Khi đó chư Thần vớt tôi lên và đem vào đền vua, được biết đây là Long Vương. Tôi nghe Long Vương hỏi: “chư Thần bắt hồn chúng sanh ở cõi Diêm phù sao không bỏ trong hồ lô mà để hồn bay ở ngoài như vậy, đi qua biển lạnh chịu sao nổi?” Lúc ấy chư Thần trả lời sao tôi không nghe rõ. Kế đó Long Vương bảo một vị rồng bề ngang độ 3 thước, bề dài hơn trăm thước và tôi cùng 18 vị Thần lên lưng ngồi. Xong xuôi rồng bay tới chân núi dừng lại, các thần cõng tôi bay xuống. Ngọn núi to lớn vô cùng, xa xa là bể cả, được biết đây là núi Thiết Vi. Khí trời ở đây lạnh lắm, sương sa tuyết đổ, trên chót núi tuyết đóng trắng phau. Cảnh trời u ám. Có một điều lạ là khi tôi đến biển thì trời đã tối nhưng khi đến ngọn núi nầy thì lại thấy cảnh mờ mờ. Chư Thần cõng tôi bay vòng quanh núi, đến một cửa đá rất lớn, Thần gõ 3 tiếng thì cửa đá mở ra. Thần hỏi: “Sư nữ có sao không?” Tôi đáp: “Thưa ngài tôi lạnh lắm chịu không nổi”. Có một vị Thần lấy ra một cái y trong tay áo để cho tôi đắp. Các ngài cùng tôi vào trong núi thì nghe các vị nói: “Bồ Tát đến rồi”.  Vào trong núi thấy hào quang sáng rực một vùng đất rộng lớn bao la, ở đây nghe ấm áp hơn bên ngoài. Nhìn vào trong thấy đền đài nguy nga to lớn, trước đền hai cái tháp cao, có hai vị Bồ Tát đang ngồi ngang nhau. Hào quang tua tủa đổ hột. Tưởng mình được về Tây Phương, lòng mừng khấp khởi, định chạy đến chỗ Bồ Tát ngồi mà lạy.

QUẢ BÁO
Phía ngoài hai vị Bồ Tát ngồi, sau lại có một đàn gà, vịt rất đông, còn phía trong xa là đền rồng của vua Nhứt Điện, vì thấy Bồ Tát tôi quá mừng mà không thấy đàn gà vịt chận mình phía trước, mỗi con lớn bằng con nghé, tôi vừa đi tới nghe chúng nó nói: “Dữ hôn, chúng tôi đợi nhà ngươi từ tháng 10 năm Sửu đến tháng 4 năm Dần mới gặp. Chúng tôi được nghe Nhứt Điện Tần Quảng Vương nói nhà ngươi đã quy đầu Phật pháp mà tu hành. Nhưng trước kia nhà ngươi ỷ mạnh sát hại chúng tôi, nào cắt cổ, nhổ lông, phân thây, xé thịt để đem lại sự giàu có cho mình mà chẳng xót thương đến loài sinh vật yếu đuối ngu khờ này. Ngày nay nhà ngươi xuống đây chúng tôi phải phân thây trả hận”. Nói đến đó, chúng nó ào lại vây quanh, con thì mổ, con thì đá, lớp gà, lớp vịt mổ bươi cào cấu tôi đau đớn vô cùng. Không còn chịu đựng nổi nữa, liền té quỵ xuống, chúng nó leo lên mình nó chà, nó đạp, bươi, mổ xé, cắn nên tôi ngất đi, nhưng lạ lùng thay tôi còn nghe tiếng Bồ Tát Quan Âm nói: “Này các con vật kia, hãy ngưng lại mà nghe ta nói hai điều. Điều thứ nhứt, các ngươi tự do trả hận, nhưng tất cả đều phải đứng qua một bên, con này mổ rồi đứng qua bên kia, tới con khác mổ, như vậy mới công bình. Số các ngươi là một ngàn mười một con, mà một con cứ mổ hoài, còn con khác không mổ được rồi cứ kiện thưa mãi ai ở đây mà phân xử cho nổi.
Trả thù xong rồi, các ngươi tự đi đầu thai, con nào còn kiếp thú thì làm thú, con nào mãn kiếp được tiến lên làm người, đó là điều thứ nhứt. Còn điều thứ hai là các ngươi không trả hận, để ta cứu nó sống dậy, nó sẽ tụng kinh cầu siêu cho các ngươi tiến lên làm người hết, sau này nó sẽ làm thầy các ngươi mà độ các ngươi tu hành. Trong hai điều, các ngươi muốn điều nào tùy ý, chớ luật công không ép”.
Bồ Tát nói đến đó thì chúng nó dang ra xa và không mổ nữa. Bồ Tát bảo tiếp: “Các ngươi cứ từ từ mà trả hận đi”. Các con vật trả lời: “Bây giờ tôi muốn tên này tỉnh dậy để cầu siêu cho chúng tôi được làm người, chớ mang lớp thú hoài, khổ quá!”. Bồ Tát liền sai một vị Thần đem nước tưới vào mình, tôi liền tỉnh dậy. Nhớ lại mình đã cắt cổ gà, vịt quá nhiều, lòng hết sức ăn năn, tôi bước tới trước mặt Bồ Tát mà lạy. Bồ Tát Quan Âm dạy rằng: “Nhờ ngươi thức tỉnh tu hành thọ trì kinh pháp trong 6 năm và cũng may là các con vật này nó họp lại đây kiện ngươi, xin trả thù có một lần. Bằng không sau này ngươi phải đầu thai một ngàn mười một kiếp để thường mạng, thì biết bao giờ mới trở lại làm người mà tu hành. Chúng sanh mê muội, không rõ luật nhơn quả, cứ tưởng chết rồi hết, cho rằng “Vật phải dưỡng nhơn” rồi mạnh tay sát hại,chừng khi quả báo đến thì kêu trời, kêu đất, ai cứu được. Nhà ngươi có biết các con vật ấy là chi của ngươi không?” Tôi đáp: “Bạch Bồ Tát, con chỉ biết nó là con vật thôi”. Bồ Tát nói: “Nó là ông bà, cha mẹ, thân bằng quyến thuộc của ngươi trong nhiều đời, nhiều kiếp. Trước đây nó cũng sát sanh như ngươi nên phải hóa làm thú, nay ngươi nhìn chẳng ra nên đành tâm sát hại chúng. Ngày nay ông bà cha mẹ ngươi lại kiện cáo ngươi để trả thù, thế gian là trả trả vay vay như vậy đó. Chúng sanh cõi Diêm phù ưa sát hại sinh vật cho cha mẹ, chồng con ăn bổ dưỡng thân thể, hoặc bắt cá, cua để nuôi con cháu. Vì thương mà hại, đó là mình hại mình, hại luôn cả cha mẹ, thân quyến đều phải chịu tội chung. Bây giờ ngươi hãy tụng kinh cầu siêu cho chúng nó được tiến lên làm người, giảng cho chúng nó nghe một bài, khuyên chúng nó rán niệm Phật và quy y Phật, Pháp, Tăng cho chúng nó”.

CẦU SIÊU
Khi đó, tôi bạch rằng: “Con phải tụng chi cho chúng nó tiến lên làm người?”. Bồ Tát dạy: “Ngươi phải tụng kinh Đại Bi và Thập Chú, đủ một ngàn mười một biến”. Nghe như vậy tôi liền đứng lên chấp tay tán Dương chi tụng Đại Bi Thập Chú. Trong khi ấy các chư Thần cùng các vị quỷ sứ họp chung để tụng, nhờ thế mới mau đủ số, chớ nếu để một mình tôi tụng thì có lẽ trên cõi Diêm phù, con tôi đã chôn xác tôi rồi.
Trong lúc tôi tụng thì các con thú tiến lần ra ngoài, đến sông Ứ Nê mà đợi đó, các chư Thần múc nước cho chúng nó uống đặng đi đầu thai. Sông này có 3 dòng, dòng trong để cho vong hồn nào hiền đức uống, sau này sẽ được thông minh sáng suốt. Dòng đục cho người hung ác, hoặc thú mới lên làm người thì sau này bị u mê đần độn. Dòng đỏ dành cho những người đại ác, uống vào thì hóa thú đi đầu thai trả nghiệp. Chư Thần cho chúng nó uống một chung đầu thì rụng hết lông, chung thứ hai thì hoá làm người, chung thứ ba thì tay chân mọc ra. Liền đó tôi giảng cho chúng nó nghe một bài. Ở đây, xin nói lược: “Này các ngươi trước đây các ngươi vì ác quấy mà phải chịu làm kiếp thú, nay được tiến thoái, tuỳ ác hay thiện mà các ngươi tiến lên làm Trời, làm người hay phải đoạ làm thú, hoặc đày xuống địa ngục chịu hành hình đều do thiện ác của các ngươi tạo ra mà lãnh lấy hậu quả. Khi đầu thai các ngươi phải ở trong bụng người đàn bà khác nào ở trong ngục tối, đến khi ra thai phải ra cửa sản môn như chen qua hai viên đá cứng rắn, đau đớn vô cùng. Sanh ra rồi chỉ nằm lăn lóc đó mà chờ sự sống của ông bà cha mẹ đem lại. Lúc lớn lên đôi mươi tuổi lập gia đình, sanh con đẻ cháu. Có phước thì sống trong cảnh giàu sang nhung lụa, vô phước thì sống trong cảnh cơ hàn đói rét, thiếu trước hụt sau, nhọc nhằn suốt đời rồi cũng chết, tức là các ngươi bỏ cái thân giả ấy. Khi đi đầu thai các ngươi chỉ đem cái nghiệp thức nầy thọ sanh, khi chết các ngươi cũng chỉ trở về cái nghiệp thức, còn bao nhiêu sự nghiệp: nhà cửa, ruộng vườn, tiền tài, địa vị, thế quyền danh vọng thì ôi thôi đều tan theo mây khói. Nhưng các ngươi biết tu hành, tạo duyên lành theo Phật, Pháp đó là vật báu của các ngươi hưởng trong muôn thuở, hoặc các ngươi gây ác nghiệp thì chính tự mình tạo xiềng xích trói buộc muôn đời.
Hôm nay, tôi khuyên các ngươi hãy nhớ niệm Phật, các ngươi niệm theo tôi:
Nam Mô A Di Đà Phật
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô Cứu khổ Cứu nạn Quan Thế Âm Bồ Tát
Nam Mô Đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Hễ tôi niệm vị Phật nào thì chúng cũng niệm theo vị Phật ấy. Tôi bèn nói tiếp: “Niệm Phật tức là gieo thiện căn trong Phật, Pháp. Niệm Phật tức là gieo hột giống Bồ đề, các ngươi hãy nhớ niệm Phật”. Tôi bèn quy y Phật, Pháp,Tăng cho chúng nó, xong rồi chư Thần thổi cho các vong biến nhỏ lại, thâu vô hồ lô đưa đi đầu thai, trong đêm 23 rạng 24 tháng 4 năm Dần, tính đến nay chúng cũng được 6, 7 tuổi rồi.

KẾT ÁN
Xong rồi, tôi trở vào đến ngay Bồ Tát lạy nghe ngài phán rằng: “Ngươi tạo tội ác tày trời, nay dám nguyện trả xong trong một kiếp, có chịu nổi không?” “Bạch con chịu nổi”. Bồ Tát nói: “Vậy thì vào Nhứt Điện Tần Quảng Vương mà lãnh án”. Đến Nhứt Điện tôi quỳ xuống nghe ngài phán án: “Tội lỗi của ngươi rất lớn, nay ngươi nguyện trả xong một kiếp thì hãy khai đi”. Tôi bèn khai: “Bạch Diêm chúa, con sát sanh vì giết vật rất nhiều, tội cắp vì mua bán gian xảo, tội tà dâm vì có bảy đời chồng, tội nói láo vì con nói láo hơn ai hết, đã vậy lại còn uống rượu nữa”. Nói đến đâu thì có vị quan giở sổ xem đến đó, kế Diêm chúa quở: “Còn tội bán đồ lậu chợ đen sao không khai, mua một bán mười làm cho kẻ nghèo không đủ tiền mua, tội ấy như tội ăn cướp, lòng độc như rắn, muốn đầy túi mình chẳng biết thương ai”. Tôi nói: “Bạch ngài, tôi xin chịu tội”.
Nhứt Điện bèn phán án: “Tội sát sanh rất nặng, theo lẽ thì phải thường mạng, nhưng hôm nay ngươi xuống đây cho chúng nó trả hận, và ngươi cầu siêu cho chúng nó như đã xong, song còn dư báo, nếu sau này ngươi tu hành độ chúng nó thì dứt hết oan gia bằng thối thất thì phải thọ sanh thường mạng.
Nhờ lòng hiếu thảo mà nay trừ được tội gian tham và tội bán đồ lậu. Hàng ngày niệm Phật rất nhiều nên trừ được tội nói láo.        Còn dâm dục tuy có tội mà không, vì đó là ngươi trả nghiệp. Vậy ngươi hãy nghe ta nhắc lại tiền kiếp của ngươi: Trong sáu kiếp qua ngươi quy y theo Phật, Pháp,Tăng mà tu hành, nhưng tiếc thay kiếp vừa qua ngươi xuất gia từ 8 tuổi đến 42 tuổi tu hành tinh tấn, giới hạnh thanh tịnh, độ chúng cũng đông nên được làm Hòa Thượng, trụ trì chùa Tổ Đình vùng Phú Thọ Chợ Lớn. Nhờ công đức năm kiếp trước nên kiếp thứ sáu vừa qua được thông minh sáng suốt, tinh thông kinh luật luận, nên được bá tánh sùng bái, các vị Tăng Ni mến phục. Vì học giỏi được người kính nể, ngươi sanh cống cao ngạo mạn, tưởng mình là Phật, lấy làm tự đắc buông lung, không kềm tâm thúc ý, để tâm ý ruổi dong theo trần cảnh, giới luật buông xuôi, tâm đạo giải đãi, lòng phàm bừng dậy, đắm sắc tham tài, mới phá giới, phạm trai mà tư dâm với cô gái 20 tuổi ở gần chùa. Lấy của thường trụ mà nuôi gái tơ, dụng của Tam Bảo để mua chuộc ái tình cho đến 70 tuổi mới chết. Khi chết xuống đây phải ở Địa ngục thứ chín trong 28 năm để đền tội lỗi, từ 42 tuổi đến 70 tuổi. Vì lẽ trên nên 7 đời chồng của ngươi trong kiếp này là 7 người đệ tử ruột của ngươi đi đòi nợ trong kiếp vừa qua đã cung phụng cho ngươi đủ thức ngon vật lạ. Theo lẽ kiếp này ngươi phải làm gái ở lầu xanh để trả nợ bá gia. Nhờ ngươi sớm thức tỉnh tu hành, hồi 17 tuổi có quy y với Đại Đức Thích Hoằng Nghĩa ngài dạy ngươi niệm Phật và tụng chú Đại Bi. Nhờ thế mà qua khỏi nghiệp ở lầu xanh, nhưng phải chịu nghèo khổ buôn bán tảo tần để trả nợ”.

CHỊU QUẢ BÁO
Nhứt Điện Tần Quảng Vương phán tiếp: “Ngươi hãy nghe cho rõ lời Trẫm phán: “Trong lúc làm Hòa Thượng mà còn đắm sắc đàn bà thì lãnh tội đui. Đã là hàng Đại Đức trụ trì ngôi Tam Bảo mà đêm đêm sang nhà gái ăn thịt uống rượu mà miệng còn thốt câu: “Vật dưỡng nhơn” không làm gương cho người thế, còn xúi người làm ác nên lãnh tội câm. Đã xuất gia đầu Phật mà còn thích nghe tiếng nỉ non êm ả của đàn bà con gái nên lãnh tội điếc. Theo lẽ kiếp này ngươi phải làm gái ở lầu xanh nhưng ngươi biết sớm ăn năn tu hành theo Phật và cũng nhờ lời đại nguyện của ngươi xin trả nghiệp trong một kiếp, thôi hãy lãnh án mà trở về dương thế làm gương cho người đời, nếu biết ăn năn cố gắng tu hành thì xuống đây sẽ định lại”. Tôi nói: “Bạch Diêm chúa, tội câm và điếc tôi xin lãnh, còn tội đui xin ngài khoan hồng cho tôi”. Nhứt Điện phán: “Vì nghiệp lực của ngươi Trẫm không thể nào tha được, ngươi hãy đến Bồ Tát mà xin”. Nghe lời ngài tôi bèn đến lạy Bồ Tát Quan Âm. Ngài hỏi: “Ngươi muốn sáng mắt để làm gì?” “Bạch Bồ Tát, con thấy chúng sanh nơi Địa ngục quá khổ sở nên xin được sáng mắt để tụng kinh Pháp Hoa cầu nguyện cho chúng sanh mau sớm siêu rỗi”. Đức Địa Tạng nói: “Nếu có lời đại nguyện thì phải đốt tâm”.  Liền đó có một vị Thần bưng cái ô như ô trầu đến quỳ  trước Bồ Tát Quan Âm, vị khác đến gắp cục lửa đem đưa tôi bảo nuốt. Thấy lửa thì sợ nhưng không dám cãi, cứ nhắm mắt há miệng, cục lửa vừa bỏ vào miệng tôi nghe nó chạy tuốt xuống bụng, liền từ đầu đến chân phát ra ngọn lửa, cả cơ thể tôi rung động thật kinh sợ vô cùng. Khi ấy tôi hối hận nghĩ rằng: Phải dè đừng xin, vì xin khỏi đui mà chắc phải chết”. Vừa nghĩ thế vị Thần gắp cục lửa thứ hai cho tôi nuốt, lửa cũng bốc lên dữ dội và cục thứ ba vẫn thế. Làm cho tâm thần tôi tán loạn, ngồi không muốn vững. Nghe Bồ Tát bảo: “Nghỉ một chút”. Tâm trí tôi lúc đó hoang mang, tay chân rụng rời. Vị Thần đứng kế bảo: “Ngài rán tỉnh tâm niệm Phật chớ còn nuốt nữa”. Tôi nghe như vậy định thế nào cũng chết, vì mình là người đại ác nên nay phải trả nghiệp, thôi đành chịu vậy. Vừa nghĩ tới đó kế vị Thần gắp cục lửa bảo tôi nuốt nữa nhưng lạ thay, tới cục thứ tư này nghe trong mình không sao hết, tôi nuốt như mình ăn cơm vậy, dầu cho nuốt bao nhiêu tôi cũng không sợ. Ban đầu còn đếm, một lúc không biết đã nuốt bao nhiêu. Chợt nghe Bồ Tát bảo: “Thôi cho ngươi an toạ”. Tôi liền trở lại chỗ ngồi, lạ một điều là chỗ tôi ngồi khi đi thì ghế mất, khi ngồi thì ghế lại hiện ra. Ngồi xong có một vị Thần ở phía sau bưng hộp ra quỳ trước Bồ Tát Quan Âm xem và nói: “Tham, Sân, Si của ngươi hãy còn, ba cục đen là chỉ lòng tham, sân, si của ngươi đấy! Còn cục đỏ này là chỉ ngươi sẽ sanh lên cõi trời, 36 cục trắng kia chỉ lòng trong sạch của ngươi. Vì ngươi quá sợ tội nên quyết chí tu hành, lòng trần không còn nghĩ đến. Như vậy cũng tốt, nhưng phải tinh tấn tu hành sao cho ba cục đen này  hóa trắng thì ngươi mới hoàn toàn trong sạch, và vì lời đại nguyện nên phải khám phá Địa ngục”.  Lúc ấy tôi ngẩn ngơ vì không biết phá Địa ngục bằng cách nào? Nghe chư Thần nói: “Ngài hãy dùng gươm trí huệ mà phá”. Tôi nghĩ bây giờ cứ cố gắng niệm Phật, liền đến lãnh ấn nơi Nhứt Điện cùng các chư Thần đi khám phá Địa ngục.

NGỤC THỨ NHẤT
Khi đó hai vị quan đi trước dẫn đường, 2 quỷ sứ cùng 18 vị Thần vào ngục. Trong ngục thứ nhất không có sự hành phạt, chỉ gồm có 4 số người 1) Số công, 2) Số oan, 3) Số ưng, 4) Số phạt. Số công là mãn số rồi chết và cũng không tạo nghiệp sát nhơn. Số oan là kiếp trước không giết người nhưng kiếp này bị người giết. Số ưng là kiếp trước giết người và kiếp này bị ngươi giết để trả nghiệp. Còn số phạt là khi chết oan mà không chịu theo chư Thần xuống Địa ngục, cứ mãi lẫn trốn nơi cõi Diêm phù tìm người trả hận, hay phá khuấy người, bận cho chư Thần phải quan sát, nay bị bắt xuống đây để chờ xử phạt. Đó là Địa ngục thứ nhất.

NGỤC THỨ HAI
Trong ngục thứ hai cũng có 4 số người như ở ngục thứ nhứt, nhưng khi còn ở ngục thứ nhứt là đợi xử án, khi xử án xong rồi thì qua ngục thứ hai để chờ lãnh án mà đi, hoặc được lên làm người, hoặc vào ngục khác mà chịu tội, hoặc qua cảnh nhơn hiền tu thêm. Có vị quan đi theo nói: “Nếu vong nào có lòng hỷ xả, trước kia mình không giết ai, nay bị người giết, sự chết sống ở đời chỉ là sự giả dối, nay không hận thù, dù vong ấy có tạo tội cũng được ân xá qua cảnh nhơn hiền tu thêm, chỉ có tội ngũ nghịch là không trừ được.
Còn vong nào cứ xin đi trả thù thì Nhứt Điện Tần Quảng Vương cho dẫn vào ngục ngay không xét xử, nếu chúng sanh cứ mãi gây thù kết oán thì cõi ta bà biết ngày nào dứt được chiến tranh, đáng thương xót chúng sanh bị giam cầm nơi Địa ngục những vong cứ mãi hận thù”.

NGỤC THỨ BA
Trong ngục thứ ba có một  số người rất đông, sau thời gian bị hành phạt ở các Địa ngục tuỳ theo tội ác của họ, nay chờ xét lại rồi lãnh án để sanh làm người hay qua cõi nhơn hiền tu thêm. Số người này lo đập gạo nấu cơm (vì hột gạo ở đây to như trái dừa khô ở dương thế). Nấu xong đem phát cho các vong ở các ngục ăn. Mỗi Địa ngục rất lớn, ước bằng Châu Thành Mỹ Tho vậy, đó là đại Địa ngục. Trong một đại Địa ngục chia ra làm 16 tiểu Địa ngục. Mỗi Địa ngục các vong nhiều thôi vô số, ngồi có hàng có lớp, gục tới gục lui thật là sầu khổ.
Qua ba ngục trên tôi khuyên các vong niệm Phật. Tôi nói: “Tôi coi các vong ở Địa ngục này như bà con, cô bác của tôi vậy. Cô bác hãy niệm Phật, có niệm Phật tội mới được tiêu trừ, tôi bèn niệm:
Nam Mô A Di Đà Phật
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô tầm thinh Cứu khổ cho chúng sanh nơi Địa ngục này Quan Thế Âm Bồ Tát
Nam Mô Đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Nhờ lời khuyên của tôi mà các vong đều niệm theo, hễ vong nào chí tâm niệm Phật thì ra khỏi Địa ngục ngay, còn vong nào cứng cỏi hay nghiệp chướng quá nặng nề mê muội không niệm được thì vẫn ở trong Địa ngục. Nhờ thế mà trong ba ngục đầu các vong được ra rất nhiều.

NGỤC THỨ TƯ
Trong ngục thứ tư hành phạt những người huỷ hoại cơm gạo, đồ ăn uống phải chịu tội khổ ăn dòi chẳng hạn, kẻ nhiều người ít. Có người một diệm, kẻ một khạp, một lu lớn, cho đến kẻ nặng nhiều không kể xiết, ước nhiều như chợ Mỹ Tho vậy. Được biết tội nhân khi ăn hết dòi đó rồi, nếu còn tội khác thì phải đến ngục khác chịu tội, như hết thì đi đầu thai chịu quả báo xấu xa bần cùng khổ sở.
Một số đông vì tội nấu rượu, không biết bao nhiêu là lu, người một lu, kẻ hai lu, đến 5, 6, 7 lu để dài dài ước chừng 3 cây số ngàn, hàng ngàn hàng trăm chớ không phải đôi ba. Được biết khi uống hết rượu trong lu, nếu còn tội khác thì đến ngục khác chịu hành nữa, còn như hết tội thì đi đầu thai làm thú hay làm người ngu dốt chẳng hạn tùy theo nghiệp.
Tôi thấy như vậy lòng chua xót vô cùng bèn khuyên các vong niệm Phật, hễ ai nghe lời niệm Phật theo tôi thì tự nhiên dòi trong khạp tiêu mất, rượu trong lu vơi cạn, vì thấy sự mầu nhiệm như thế nên nhóm này niệm Phật truyền đến nhóm khác. Tôi cũng bươn bả đi khắp các nơi, vừa đi vừa niệm Phật và khuyên các vong hồn niệm Phật. Nhờ thế cửa Địa ngục thứ tư này ra khỏi một số rất đông.

NGỤC THỨ NĂM
Khi vào ngục thứ năm, ôi! Vô số người bị mang gông tra cùm, do vì tội phao phản thêm bớt, nói gian dối làm người phải tù đày, mang gông đi không nổi, bị quỷ sứ ở sau đánh tới, cứ một bước bị đánh một cái, đến bước không nổi, té xuống thì bị đánh liên tu bất tận đến chết đi sống lại, cũng có một số bị nhốt vào lồng sắt vì lúc sống bắt thú nhốt vào lồng để chơi cho vui thích, tôi cũng khuyên bà con niệm Phật, hễ ai niệm theo tôi, thì gông cùm tan rã, lồng sắt vỡ ra. Đây tôi chỉ nói sơ lược ở ngục thứ năm.

NGỤC THỨ SÁU
Vào ngục thứ sáu được nghe tội báo ở đây là do sát sanh hại mạng để ăn uống như: trâu, bò, heo, chó, gà, vịt, rắn, rùa…Số nào giết trâu, bò, ngựa, chó thì vít lên núi lửa, giữa núi lửa có một cột đồng rất lớn, lửa cháy hừng hực. Số nào chỉ ăn mà không giết thì vít ở ngoài cột đồng, số nào vừa ăn vừa giết là vít ngay trên cột đồng, lửa cháy xèo xèo, mùi hôi khét xông lên. Ở đây cũng có một số người bất hiếu, chửi cha mắng mẹ hoặc bỏ cha mẹ bơ vơ khổ sở, cũng bị hình phạt như vậy. Thật khó mà khuyên họ niệm Phật vì nghiệp lực quá nặng, chỉ có một số ở ngoài còn khuyên niệm Phật được. Hễ số nào niệm Phật thì ngưng hành hình, còn không niệm thì quỷ sứ cứ tiếp tục hành phạt mãi. Đi một đỗi nữa gặp số người rất đông: Số thì giữ gà vịt, số thì giữ heo bò, dê ngựa .v.v... Tôi lấy làm lạ nói: “Ủa, ở Địa ngục cũng có nuôi heo gà, bò dê nữa hay sao?” Có vị quan đi theo trả lời: “Không phải, đây là những chúng sanh, khi còn sống nuôi bò dê, heo gà vịt để sanh lợi chớ không sát sanh. Chúng phải ở đây mà giữ số thú này, chừng nào số thú này mãn kiếp thú thì mới được đi đầu thai. Đó là chưa kể những tội khác, còn phải đến các ngục kia mà chịu tội nữa”.
Lại có những người hay đi nghe những trò hát ca tình tứ khêu động tình dục làm cho người say mê điên đảo, bị quỷ sứ bắt hát lại cho những người giữ thú xem. Nếu hát được thì thôi, bằng hát không được thì quỷ sứ đập tơi bời. Có vị quan đi theo nói: “Những chúng sanh này khi còn sống được giàu sang rồi ăn xài lãng phí, phải chi chúng nó dùng tiền ấy để bố thí cho người nghèo đói, hoặc in kinh, tạc tượng Phật, hoặc cúng chùa hộ quý Tăng Ni tu học thì quý báu biết bao! Lúc chết được sanh về Trời hưởng phước tu thêm đặng về cảnh Niết Bàn, chớ có đâu mê muội xài phí đồng tiền vô ích mà nay phải vào Địa ngục”.
Đi một đỗi nữa đến cầu Nại Hà bắc ngang qua một cái hầm rộng lớn ước chừng năm mẫu đất, cầu thì nhỏ tròn như cây cau, ở dưới đủ các loại thú vật có từng đoàn, đoạn đầu thì bầy trâu, bầy bò, bầy ngựa, bầy voi, bầy cọp, bầy rắn, kế đến là bầy gà,  vịt, heo, dê đủ loại, sau cùng là bầy chó, nếu ai giết thú nào, khi đi qua cầu ngang qua bầy thú ấy do nghiệp lực tạo ác của mình mà phải té nhào xuống hố, mặc tình cho chúng nó giày bừa đá đạp. Hễ giết voi thì voi dậm, giết chó thì chó xé, giết heo thì heo ủi, giết gà thì gà mổ, giết rắn thì rắn quấn.v.v…Cho đến thân thể nát nhừ hôi thúi rồi đi thường mạng, những người nào không giết hại sinh vật thì qua cầu bình an. Tôi qua cầu cũng được an, vì nhờ đã cầu siêu cho đàn gà vịt rồi, khi đó có một con chó chạy theo tôi, cái thân thì người ta mà đầu chó, thấy nó tôi phát run, nó kêu : “Cô ba, cô ba, tôi là chó Nô đây, cô quên tôi sao?” Tôi nói: “Ủa, Nô mày chết lâu rồi sao còn ở đây?” Nó nói: “Tôi kiếp trước là đệ tử của thầy Giác Tân, vì lòng tham lấy của Tam Bảo, nên phải làm kiếp chó để giữ chùa, kiếp tôi chưa mãn, bị một người thuốc chết, tôi quyết chờ nó xuống đây trả hận”. Tôi bèn khuyên: “Thôi mày xin đi đầu thai đi, thù oán làm gì cho khổ, chẳng lẽ mày đợi mãi sao?” Miệng nói mà chân tôi đi riết.
Ra khỏi ngục, gặp Lục biện, Ngài nói: “Ngươi thấy chưa, chúng nó vì tội sát sanh hại mạng mà khổ như vậy, khi về cõi Diêm phù, rán khuyên người đừng sát sanh hại vật và cũng đừng đốt giấy tiền, vì chỉ có tội chứ không có phước”. Sơ lược như vậy.

NGỤC THỨ BẢY
Khi đến Thất điện, tôi nghe Thất điện dạy rằng: “Sư Nữ của các ngươi oai thần đã giảm, nếu vào ngục có xỉu thì đưa ra cấp tốc, kẻo nhiểm khí độc”. Bước vào ngục tôi thấy tội nhơn bị quỷ sứ móc mắt, bẻ răng, cắt lổ tai, xẻo lổ mũi, cắt lưỡi, số người rất đông tôi cũng còn vững tinh thần, đến chừng thấy người cậu (Cậu chết tháng 2, tôi chết tháng 4) bị bẻ răng, móc ruột, máu ra lai láng, tôi xỉu luôn, chư thần liền đưa tôi ra.

NÓI CHUYỆN VỚI CẬU
Khi tỉnh lại, tôi liền xin với Thất điện cho tôi tiếp tục đi xem ngục thứ bảy. Ngài nói: “Không đặng vì oai thần của ngươi đã giảm hãy về tu thêm”. Tôi nói: “Tôi có cậu chết hôm tháng hai, đang chịu tội trong ngục, xin ngài cho tôi trở vào thăm”. Ngài nói : “Không được, để tôi cho quỷ sứ dẫn cậu ra”. Quỷ sứ đưa cậu ra, tôi hỏi: “Hồi đó cậu nói với tôi cậu tụng kinh Pháp Hoa 40 năm, sao nay cậu còn bị đọa vào Địa ngục?”. Cậu trả lời: “Vì cậu nói láo nên nay mới bị hình phạt như vầy, Cậu còn có tội khi dễ người đời, lại thêm hốt thuốc cắt cổ nữa. Vậy con về nói với thằng Khanh, thằng Chình con của cậu, phải bán hết gia sản làm chay, bố thí, phóng sanh hoặc ấn tống kinh cúng chùa mà cầu siêu cho cậu, vì của ấy là của mồ hôi nước mắt của người đời, cậu bóc lột của họ nhiều quá”. Tôi nói: “Thôi cậu rán niệm Phật, khi trở về dương thế tôi sẽ tụng kinh cầu siêu cho cậu, chớ con cháu dễ gì tin theo lời tôi nói”. Lúc ấy Thất điện có phán: “Chúng sanh ở cõi Diêm phù thật quá mê muội, tưởng chết rồi là mất hết, nên thẳng tay tạo điều ác nghiệp, đến khi chết xuống Địa ngục ăn năn đã muộn. Khi về cõi Diêm phù, Trẫm có đôi lời nhắn nhủ với chúng sanh, mỗi ngày phải rán tu một giờ, hay nửa giờ niệm Phật, tụng kinh trì chú. Ngươi cũng khuyên chúng sanh đừng đốt giấy tiền mà cầu siêu cho ông bà. Nếu vậy Nhứt điện Tần Quảng Vương đi ăn hối lộ của người thế hay sao? Muốn cho ông bà, cha mẹ được siêu rỗi thì phải bố thí cho kẻ nghèo đói, cúng chùa hộ Tăng Ni tu học, in kinh ấn tống, mua vật phóng sanh mà cầu siêu thì cha mẹ, ông bà có chết bao nhiêu năm cũng được siêu độ”. Đến đây tôi xin kiếu ngài để trở về Nhứt điện.

TRỞ VỀ NHỨT ĐIỆN
Khi về đến Nhứt điện, ngài phán: “Ngươi khám phá Địa ngục thấy sự trừng trị có công bình hay không”. Tôi đáp: “Bạch ngài, sự trừng phạt rất công bình nhưng chúng sanh tạo ác lúc nào không biết, nay thấy chúng bị hành phạt khổ sở, lòng cũng quá xót thương”. Ngài nói: “Chúng sanh khi còn sống chỉ lo cung phụng cái xác giả tạm mà gây bao tội ác: nào sát hại sinh vật, nào cướp của giết người, lòng tham không đáy, muốn ngồi không mà hốt của thiên hạ cho gia đình, thân tộc bè bạn vui say, cuối cùng cái thần thức phải vào Địa ngục”.
Nhứt điện phán tiếp: “Thay vì nhà ngươi phải lãnh tội đui, câm, điếc mà trở về cõi Diêm phù trong 10 năm, nhưng nhờ công phá  bảy cửa Địa ngục mà chúng sanh được siêu độ rất nhiều, nên giảm được tội đui, chỉ còn lãnh tội câm và điếc trong vòng 3 năm rồi xuống đây sẽ định lại. Nếu tinh tấn tu hành, gia đình tu thiện, tránh sát sanh thì còn giảm nữa bằng không thì mang tật suốt đời”.
Kế ngài phán: “Nhà ngươi biết nhận tội ăn năn cải sửa, có lắm chúng sanh đến đây mà còn chối tội, Trẫm bèn cho xem kiếng chiếu tiền ảnh thấy việc làm của mình trên trần thế, lúc ấy hết phương chối cãi, cũng có nhiều chúng sanh xin sống lại để đem tiền bố thí cúng chùa. Nhưng xác thân của chúng đã rã rời, đâu còn mà trở lại, vì một vong hồn xuất ra, quỷ sứ thâu nhỏ lại bỏ vào hồ lô mang xuống vua Đông Nhạc, kế giải qua Tây Nhạc, đến ngày Trẫm phán xử thì gần cả tháng, lúc ấy thì thây đã rã, đâu còn mà trở lại. Nên Trẫm cho lên Nguyệt cảnh đài, nhìn về quê quán, người thì chồng đã có vợ khác, hoặc vợ đã có chồng khác, của cải bị đám con phá tan, gia tài hao mất, tình nghĩa như đám mây bay, rồi gục đầu mà khóc”.
Tôi bèn nói: “Bạch ngài, tôi có thể xem các thứ ấy đặng không?” Ngài nói: “Đứa ác còn xem được, huống chi ngươi có ác có thiện”. Ngài  vừa nói dứt, có vị thần đem kiếng chiếu tiền  ảnh cho tôi xem. Thật là hay quá : Lúc nào tôi làm gì nói chuyện với ai? tính toán điều gì? Đều hiện ra đầy đủ như ở cõi Diêm phù ta coi hát vậy. Kế ngài bảo tôi nhắm mắt để lên Nguyệt cảnh đài, vừa mở mắt ra thì thấy mình đứng trên một tấm kiếng thật to lớn. Tôi đang nhìn qua ngó lại không biết phải xem cách nào thì bỗng có một vị cốt cách như tiên, tóc đỏ, râu vàng bước tới. Tôi hỏi: “Ngài ở đâu đến  đây”. Ông ấy đáp : “Ta chẳng phải ở đây, cũng chẳng phải từ đâu đến, hễ có ngài thì có ta”. Tôi nghe nói thế cũng lặng thinh. Ông bèn dẫn tôi xem về ngôi nhà của tôi thật là tỏ rõ vô cùng, thấy xác tôi nằm trên ván đó, chung quanh có bà con cô bác lân cận, cũng có thằng em của tôi ở Thủ -Thừa qua thăm, con tôi nó đứng gần bên xác tôi và đang nói  năng điều chi đó .
      Xong rồi, người dẫn tôi xem Thủ Đô Sài Gòn, cũng thấy nhà cửa lầu đài, xe chạy, người qua kẻ lại, coi đến những đô thi trên thế giới, các đô thị này thật lộng lẫy nguy nga, lớn hơn Sài Gòn xa lắm. Tôi bèn nói : “Hay quá, thật hay quá. Xem được như vậy dầu có chết hay sống cũng vui lòng”. Ông tiên đáp: “Hay mà cũng chưa hay, ngài rán tu chừng nào mà không cần đứng trên Nguyệt  cảnh đài này mà thấy được tất cả mới thật là hay’’. Đến đây ngài bảo tôi trở về, vì đã hết thời gian ấn định. Ngài vừa nói dứt câu thì thân tôi đứng ngay trước Nhứt điện. Nhứt điện bảo tôi đến lễ Bồ Tát đặng trở về cõi Diêm phù .
                                   
TRỞ VỀ DƯƠNG THẾ
Khi đến lễ Bồ Tát vừa muốn bạch thì đã câm ngay. Bồ Tát khuyên: “Khi về cõi Diêm phù, ngươi nhớ lời đại nguyện mà tinh tấn tu hành ba năm sau xuống đây xét lại ”.
         Chư thần đưa tôi trở lại cung Long Vương, được vua Long Vương cho rồng  đưa qua bể lạnh, nhờ hơi rồng tôi thấy ấm áp hơn bận đi. Gần đến ranh giới loài người, rồng dừng lại, tôi cùng  chư thần tạ ơn  rồi bay thẳng vào nội địa. Đến nhà tôi chư thần hạ xuống, vào nhà tôi thấy cái xác của tôi nằm ngay trên ván, không cử động chi, nước da xanh mét, tôi bắt rùn mình. Trước kia tuy tôi tu hành nhưng cũng không chứng được cái hồn của mình như thế nào, ngày nay mới nhận được rõ ràng. Cái xác này là giả dối, có hồn nhập vào thì nói năng, cử động, hồn xuất ra thì cứng đờ, xanh mét, rồi theo thời gian mà tan rã, chớ có chắc thật chi đâu. Vừa nghĩ thế thì thấy có một vị thần từ trong xác tôi xuất ra (đó là thần giữ xác điều hòa hơi thở, bằng không thì xác bị hoại, tôi về nhập vô không được). Các vị thần ở ngoài xô tôi nhập vào xác. Lúc còn  ở ngoài xác, tôi tỉnh lắm có đau nhứt chi đâu, thế mà khi vào xác tâm hồn mê mẫn như người ngây ngủ, tay chân tê lạnh nặng nề. Cả mình đau nhứt, một lúc nghe gân cốt trong mình chuyển, hơi thở nghe điều hòa, tôi bèn mở mắt ra, thì thấy con tôi nó đứng kế bên đó. Lòng tôi buồn rười rượi, tự nhiên nước mắt chảy dài, chớ không nói năng gì được.
Một lúc lâu, tôi bàng hoàng ngồi dậy, thấy bà con đứng xung quanh, tôi chỉ lắc đầu, hai hàng nước mắt cứ tuông rơi mà miệng không nói chi được hết. Trong mình nhứt mỏi, các bắp thịt cứng đờ, cổ khô hốc. Chắc con tôi cũng khổ lắm, nhưng chẳng biết nói gì hơn, chỉ lấy mắt mà nhìn. Lúc ấy đồng hồ chỉ 12 giờ đêm ngày 24 tháng 4 năm Dần. Trọn ngày hôm đó và liên tiếp cho đến 3, 4 ngày hôm sau, tôi ăn ngủ không được lòng như còn hãi hùng khiếp sợ, hễ nhắm mắt thì thấy địa ngục hành hình.
Con tôi thấy tôi quá khổ sở nên có cầu nguyện ăn chay một tháng, để tụng kinh Địa Tạng cầu nguyện cho tôi. Sau một tháng tôi cũng chưa nói được, nó không thối chí, vẫn tiếp tục ăn chay cầu nguyện. Lòng tôi hễ nhớ đến chúng sanh nơi địa ngục thì lòng đau nhói, hằng ngày tôi tụng kinh Pháp Hoa bằng mắt, bằng tâm, chớ không ra lời. Mỗi ngày tôi tụng một cuốn hoặc hai ngày một cuốn, do đó tôi và con tôi tụng luôn sáu tháng.

XUỒNG ĐỊA NGỤC LẦN THỨ NHÌ
Đến ngày 12 tháng 10 cũng năm Dần, chư Thần xuống rước tôi xuống âm phủ, chư Thần cõng tôi qua địa phận loài người thì có Rồng chờ sẳn mà đưa ngay vào Địa ngục. Hai vị Bồ Tát đã đến lúc nào, thấy hai vị Bồ Tát tôi bèn đến đảnh lễ. Bồ Tát Quan Âm phán: “Quý thay, nhà ngươi giữ tròn lời đại nguyện cho chúng sanh nơi Địa ngục. Ta cho ngươi biết, oai thần kinh Pháp Hoa rất lớn, và cũng nhờ ngươi đem hết thân tâm cầu nguyện nên mỗi bộ được siêu rỗi trên hai ngàn vong linh. Nhà ngươi có đứa con đại hiếu, ăn chay tụng kinh cầu nguyện cho mẹ, tội ngươi được ân xá thêm”. Ngài liền bảo vị Thần đưa tôi chung nước uống và rửa mặt. Lạ thay, rửa mặt xong thì tôi nói được. Bồ Tát nói tiếp: “Oai thần của ngươi đủ sức khám phá địa ngục, hãy đến Nhứt điện Tần Quảng Vương mà lãnh ấn”.
Tôi bèn đến Nhứt điện làm lễ lãnh ấn, thì ngài hết sức vui mừng, từ trên ngai vàng bước xuống mà phán rằng: “Trẫm rất mừng cho Hiền tăng, tưởng đâu 3 năm mới trở xuống nào ngờ chỉ trong 6 tháng. Ngày nay mới biết rõ tâm ngài, vì thương xót chúng sanh nơi địa ngục không quảng nhọc nhằn đem hết tâm trí thọ trì kinh Pháp Hoa để cầu siêu cho chúng, bao nhiêu công đức thọ trì kinh pháp của con ngài, ngài cũng nguyện hồi hướng hết cho chúng sanh thật, quý thay! Một điều nữa Trẫm muốn cho Hiền tăng lãnh phần in kinh ấn tống để hộ Tăng, Ni tu học, và hàng Phật tử có đủ kinh sách tu hành, vậy ngài nghĩ sao?”. Tôi nói: “Bạch ngài, tôi không sợ khó nhọc, nhưng vì tiền tài không có, xin ngài hoan hỉ cho”. Nói đến đó rồi thôi, ngài bèn đóng ấn đưa cho vị quan đặng khám phá địa ngục tiếp.

PHÁ TIẾP NGỤC THỨ BẢY
Chư Thần cõng tôi bay thẳng đến địa ngục thứ bảy vì các ngục kia tôi đã khám phá rồi, khi vào đến Thất điện, Thất điện Thái Sơn Vương cũng đón tiếp niềm nở rồi đóng ấn giao cho vị quan để vào ngục thứ bảy.
Trong ngục thứ bảy, có một số người rất đông vì tội gian dâm, đàn bà có chồng mà còn đi ngoại tình, đàn ông có vợ mà còn đi phá gái trinh hoặc gian dâm với vợ người thì bị cưa, cắt, xay giã, bầm quết xong lại bị vít ra đổ đống. Những người mưu mô kế hoạch xảo trá, cho vay bạc nợ mượn bạc nát lời, hoặc làm bạc giả, chứa bài bạc, hối lộ gian tà cũng bị hành hình như vậy, chết rồi huờn sống, sống lại bị hành hình cho chết, khổ không thể tả. Khi muốn cho sống dậy, quỷ sứ cầm một cái bình nước rưới lên đống thịt, đống thịt liền hiện hình sống dậy rồi cũng bị chặt bầm nữa. Thấy vậy lòng rất xót thương nên tôi kêu: “Hỡi các vong hồn hãy rán niệm Phật, tôi cũng niệm Phật để cầu nguyện cho tất cả được siêu thoát, vậy các ngươi hãy niệm Phật đi”. Vong nào nghe lời niệm Phật thì khỏi bị hành hình, còn vong nào không niệm thì quỷ sứ cứ tiếp tục hành hình, đó là nói sơ lược.

NGỤC THỨ TÁM
Vào ngục thứ tám này không biết bao nhiêu tội nhơn bị hành hình khổ sở. Một cột đồng thật lớn, bề tròn chừng 6 thước lửa đốt cháy rực. Quỷ sứ bắt tội nhơn ôm cột đồng, nếu không ôm chúng lấy chỉa ba đâm mà vít vào. Kế là những vạc dầu sôi sắp có hàng rất nhiều, quỷ sứ bắt tội nhơn ném vào đấy hoặc nắm hai chân nhúng đầu vào vạc dầu, chết rồi huờn sống lại tiếp tục hành hình. Đây là do tội mưu mô kế hoạch của kẻ loạn dâm để lấy lợi, hoặc dụ dỗ gái để đem bán ở lầu xanh, hiếp dâm đàn bà con gái, hoặc thầy thuốc hốt thuốc giết người, phá thai để lấy tiền, hoặc ỷ giàu có phao phản hiếp đáp người rồi đem tiền chuộc tội, hoặc xúi người kiện cáo, chia rẻ anh em hoặc chửi trời mắng đất, khi dễ thánh thần.v.v…Tội nhơn này lại bị ó, bù cắt, chim ưng mổ xé nó ăn còn xương chất đống rồi huờn sống dậy để chịu khổ nữa.
Tôi cũng có khuyên các vong niệm Phật. Nhưng các vong ở đây vì tội chướng quá nặng nề nên số niệm Phật được rất ít, số nào niệm Phật thì quỷ sứ để cho ngồi nghỉ không hành phạt, còn số kia thì cứ tiếp tục hành.

NGỤC THỨ CHÍN
Tôi cùng chư Thần vào đến Cửu điện, Cửu điện Độ Thị Vương ân cần tiếp rước, ngài phán: “Trẫm nghe có một người ở cõi Diêm phù xuống phá Địa ngục, từ lâu Trẫm cũng có lòng trông, đến nay mới được hội kiến, thật quý báu thay!”. Tôi nói: “Bạch ngài trước kia tôi đi khám phá đến ngục thứ bảy thì trở về vì oai thần chưa đủ ngày nay khám phá tiếp, xin ngài hoan hỉ chỉ dạy cho”. Ngài nói: “Trẫm cũng đi theo nữa, trước đây ngài ở ngục này 28 năm ngài còn nhớ không? Hãy vào đây xem có ai quen thuộc không?”. Vừa nói vừa đi vào ngục thì hỡi ôi! Trong ngục thứ chín này toàn là quý vị tu hành, một số thì quỳ trên bàn chông, vì trước kia mang lớp tu hành ỷ mình học giỏi khinh khi các vị Tăng Ni, Đại Đức giới hạnh thanh tịnh. Một số khác quỳ trên cây đèn lưu ly mà tụng kinh, vì lãnh tụng kinh cho người đời mà tụng không đủ. Một số khác bị hành hình đủ cách như ở các ngục khác tuỳ theo tội nặng hay nhẹ. Cửu điện Độ Thị Vương chỉ số bị hành phạt mà nói: “Số này mượn lốt tu hành mà phá chúng, lạm dụng của thường trụ mà làm việc riêng tư phi pháp, hoặc phá giới phạm trai ở chùa mà ăn mặn, sát sanh hại vật làm gương ác cho đời, hoặc cống cao ngạo mạn khi dễ Tăng Ni thanh tịnh, hủy hoại của đàn na thí chủ, rẻ rúng bạch y cư sĩ. Tu mà không kính Phật lại hủy Pháp, vọng ngữ chưa được mà nói được, chưa chứng mà nói chứng, tưởng mình là Phật, khi dễ Thánh Thần, xem thường Trời Đất cho nên ngày nay bị hành phạt như vậy”.
Tôi nghe như thế bèn khuyên các vong niệm Phật, tôi nói: “Kính thưa quý ngài, tôi xem quý ngài như thầy của tôi vậy, tôi biết quý ngài học giỏi hơn tôi nhiều lắm, cũng vì một chút lỗi lầm chi đó mà phạm giới, vậy hôm nay quý ngài cùng tôi niệm Phật đặng tiêu nghiệp chướng trở lại cõi Diêm phù mà tu nữa cho đến ngày thành chánh đẳng chánh giác”. Tôi khuyên như vậy đôi ba lần mà các ngài cứ gục đầu không chịu niệm Phật, cho nên Cửu điện ngài phán tiếp: “Chúng mầy thật mê muội, có người đến cứu mình mà mình không tự cứu mình, nếu gọi đây là Tăng Ni bị hành phạt thì không đúng, mà phải gọi là nam và nữ mượn lớp đạo để phá đạo chứ đâu phải Tăng Ni. Tăng Ni thì giới hạnh thanh tịnh, Tăng Ni thì dắt chúng độ sanh, Tăng Ni thì thương yêu vạn loại, Tăng Ni thì huỷ mình vì đạo pháp làm gương cho chúng sanh, Tăng Ni thì về cảnh Niết Bàn, chớ Tăng Ni nào ở nơi Địa ngục! Thôi ngài cũng đừng khuyên nữa, chúng đã không sám hối tội lỗi lo niệm Phật thì để chúng nó ở đó mà chịu hình phạt. Trẫm có mấy lời khi về cõi Diêm phù nhắc lại lời Trẫm để chúng sanh thức tỉnh tu hành”. Ngài nói xong tôi liền kiếu từ để sang ngục thứ mười.

NGỤC THỨ MƯỜI
Vào ngục thứ mười toàn là ngạ quỷ cái bụng lớn như trống chầu, cái đầu tợ cái nôm, cổ lại nhỏ như cổ tay vậy. Chịu đói chịu khát, lửa dữ thường phát ra cháy thân. Nhân vì tội keo kiệt bỏn xẻn, tham lam thái quá, một năm chúng chỉ ăn được ba ngày rằm lớn. Tôi thấy vậy quá khổ sở bèn niệm Phật .
Nam Mô A Di Đà Phật.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam Mô tầm thinh Cứu khổ cho chúng sanh nơi Địa ngục thứ mười này Quan Thế Âm Bồ Tát.
Nam Mô Đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Tôi niệm như vậy không  ngừng ngớt chỉ thấy chúng ngóc cổ lên dòm chớ không niệm được, vì chúng mở miệng thì lửa từ trong miệng phát ra cháy thân. Một vị quan nói : “ Thấy chúng khổ thì cũng thương, nhưng khi chúng ở cõi Diêm phù làm nhiều tội ác, nào cướp của giết người, làm đủ thập ác lại còn khi dể Phật Pháp Tăng, không tin nhơn quả, thấy người tu hành thì ngạo ố, thấy ai bố thí thì biểm môi cười, lại còn chửi cha mắng mẹ, sát sanh hại vật cũng quá nhiều. Nếu cho chúng trở lại làm người thì hại chúng sanh không sao xiết kể, đế cho chúng làm ngạ quỷ ở nơi đây cả ngàn năm, xong kiếp ngạ quỷ phải đầu thai làm thú cũng không biết bao nhiêu kiếp, mãn kiếp thú được tiến lên làm người ngu độn tối tăm. Chúng sanh mê muội một kiếp làm ác mà  ngàn kiếp phải khổ đau”. Tôi thấy không sao cứu chúng được nên tôi ra khỏi ngục thứ mười.

VÀO NÚI LỬA
Thập điện phán: “Nay ngài đến ngục thứ mười mà oai thần còn đầy đủ, bây giờ phải vào núi lửa mới biết đức của ngài cao thấp”. Tôi nói: “Bạch ngài: Ở cửa ngục thứ sáu cũng có núi lửa mà không ai bảo tôi vào, sao đến đây tôi đã phá mười ngục mà ngài còn  bắt tôi vào núi lửa”. Thập điện nói: “Núi lửa ở ngục thứ sáu là để hành phạt chúng sanh ác quấy. Còn núi lửa này là để thử sức người tu, ngài vào sẽ biết. Tôi nghĩ: “Thôi vì mình quá ác nên đành cam chịu”. Tôi bèn quỳ xuống mà nguyện: “Nay con xin nguyện cùng mười phương chư Phật chứng minh cho con, nếu như con có bổn phận vế cõi Diêm phù nói chuyện âm phủ cho người nghe mà tu hành thì vào núi lửa này vẫn bình an còn như con thiếu phước đức thân này có tiêu hoại xin núi lửa cũng tắt theo để sau này không còn chúng sanh nào phải chịu khổ như con nữa”.
Nhìn vào núi lửa thấy cháy hực, cách xa độ trăm thước mà nóng bức vô cùng huống chi vào làm sao toàn vẹn được. Khi sắp vào núi lửa thì chư Thần cũng than thở bảo : “Núi lửa này nhiều người vào đã tiêu tan ra tro mạt”. Tôi bèn hỏi : “Quý ngài dám vào không?”. Thần nói: “Chỉ có Phật và Bồ Tát vô được  mà thôi chớ như chúng tôi vào cũng tiêu tan hết”. Tôi nghĩ bụng: “Dầu sao mình cũng phải vào”. Tôi liền chạy bay vô, thế mà lạ thay! Không thấy nóng chi hết, quá mừng tôi bèn đi qua, đi lại coi núi lửa bao lớn, khi vòng vào phía trong thì gặp ngay Đức Chuẩn Đề, tôi bèn quỳ xuống làm lễ. Ngài bèn kêu tôi và nói: “Nhà ngươi vào núi lửa mà thân còn nguyên vẹn là nhờ sáu kiếp tu vừa qua chứ đâu phải công phu tu hành trong một kiếp này mà được. Nhà ngươi có biết tại sao kiếp này nhà ngươi ngu dốt không? Vì kiếp vừa qua ngươi xuất gia từ 8 tuổi cho đến 42 tuổi trong sạch lại học kinh, luật luận rất giỏi rồi sanh cống cao dấu pháp đại thừa không chịu truyền ra cho ai biết, chỉ để riêng mình biết để người đời sùng bái, vì vậy kiếp này phải chịu dốt nát u mê đặng đền tội dấu pháp của Phật. Ta hỏi ngươi, tại sao nơi Nhứt điện ngươi không lãnh sứ mạng in kinh ấn tống?”. Tôi nói: “Bạch Bồ Tát con không phải sợ mệt nhọc, vì không tiền tài làm sao dám lãnh việc lớn được”. Bồ Tát nói: “Không ta không cần ngươi có tài sản, nếu như ngươi giữ tròn bổn phận không tham của đời thời ta sẽ cho chư Thần ủng hộ, nhà ngươi muốn chi có nấy, miễn vì Phật pháp ngoài ra không đặng”.
Tôi bèn quỳ bạch: “Bạch Bồ Tát nếu được vậy thì con nguyện đời đời kiếp kiếp in kinh ấn tống ủng hộ Tăng Ni mãi cho đến khi đức Phật Di Lặc ra đời con không hề thối chuyển”. Bồ Tát nói: “Lành thay! Ngươi sẽ được như nguyện”. Tôi vừa ngước lên thì ngài mất, nhìn lại núi lửa cũng không còn khi đó chư Thần hết sức mừng rỡ bay đến tán thán không cùng.
Trở lại ngục thứ mười, vua Thập điện nói: “Ngài công đức rất lớn đã khám phá mười ngục cứu thoát rất nhiều chúng sanh, nay vì một đại nguyện mà tiêu tan núi lửa. Vậy còn ngục Vô Gián ngài phải khám phá luôn rồi trở lại đây xem Trẫm cho hồn đi đầu thai làm thú”.

NGỤC VÔ GIÁN
Đến đây tôi cùng chư Thần đi xuống mấy cấp thềm đến ngục Vô Gián, ngục này lớn không thể tả, rộng như biển, cao như núi. Trong biển sâu rộng chúng sanh lặng hụp, máu trào theo nước cuồn cuộn sôi, vật dưới biển kỳ hình dị tướng, mỏ như sắt, răng như dao, mỏng tợ gươm, rượt bắt tội nhân cào cấu xé thây, chạy lên bị quỷ lùa xuống, kêu gào ơi ới, thấy mà tán đởm kinh hồn. Tôi rán niệm Phật nhưng họ không nghe, tôi liền kêu lên: “Các thú dưới biển hãy lóng tai nghe tôi nói đây, các ngươi muốn trả thù cũng chẳng ích gì, chi bằng các ngươi nên yên lặng cho vong linh bình tỉnh nghe tôi niệm Phật, các ngươi cũng niệm Phật sẽ đặng tiến hóa làm người, chớ như vầy tôi thấy khổ sở quá!”. Kêu đôi ba lần các con thú nghe lời tôi nó bỏ lên bờ, vong hồn nào còn bình tỉnh niệm Phật cũng được lên bờ, xem hình như họ ngủ gục. Xong rồi tôi liền qua bên này có một ngục rất lớn tối đen thăm thẳm, chúng sanh trong đó đông thật đông, tiếng kêu gào lạc giọng khào khào, ve ve, rần rần vậy, nói chuyện không nghe được. Không biết làm sao tôi bèn cất tiếng niệm:
Nam Mô A Di Đà Phật
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô cứu khổ cứu nạn Quan Thế Âm Bồ Tát
Nam Mô Đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Địa ngục liền sáng ra, họ thấy tôi. Họ vừa thấy tôi họ ngoắt, tôi ngoắt họ và kêu: “Lại đây”. Khi đó họ lóng ngóng ngó đầu ra, tôi liền bảo họ niệm Phật: “Tôi niệm có bốn câu mà Địa ngục được sáng, vậy quý vị phải rán niệm Phật đi”.  Khi họ niệm Phật rần lên thì cửa ngục mở tung.
Tôi lại sang Địa ngục phía bên kia, đây cũng là một trong bao nhiêu ngục, ngục này là núi đá nhiều cục. Mỗi cục đá một người nằm, đá lớn người lớn, đá nhỏ người nhỏ, trên thân người có trâu đá, chó đá, ngựa đá, cày bừa cào cấu thấy ghê tởm.
Vì tội lỗi chúng sanh đây không kể hết được, nhiều ngục nhiều hình tôi chỉ kể sơ lược thôi. Ở nơi địa ngục tội nhơn bị hành hình muôn lần sống, muôn lần chết không chút ngưng nghỉ gọi là Vô Gián vì tội ác ngũ nghịch chịu quả báo như vậy.

HỒN ĐI ĐẦU THAI LÀM THÚ
Bấy giờ tôi cùng chư Thần trở về Thập điện để xem vong đi đầu thai làm thú trả nghiệp. Tôi thấy làm đau lòng, một số người đông lắm đều phải sanh làm thú. Số giết trâu, giết bò, giết ngựa, giết chó, giết dê, giết heo, rắn, gà, vịt.v.v…Một số đứng riêng một nhóm có hàng. Khi cho đi đầu thai, quỷ sứ dẫn hồn ra sông Ứ Nê nơi dòng nước đỏ, đến đó quỷ sứ múc nước đỏ cho vong uống, đương là người mà uống nước rồi hóa thú. Kẻ hóa trâu bò, người hóa ngựa, heo, dê, rắn, gà, vịt.v.v…Những vong chưa uống họ sợ quá không dám ngó thật là thảm thiết, quỷ sứ kéo trì, họ vừa khóc vừa uống để phải chịu mọc lông, mọc sừng.v.v…Khi các vong hóa thú hết rồi, một số quỷ sứ rất đông cầm một cây như cây cọ chấm vào lưỡi những con vật làm cho nó không biết nói. Quỷ sứ thâu các hồn nhỏ lại để bỏ vào hồ lô đem đi đầu thai. Khi đó tôi làm liều đến trước Thập điện mà xin tha cho họ. Thập điện nói: “Vì nghiệp lực của chúng nó quá nặng nề nên phải chịu đầu thai đền mạng. Nhiều đời nhiều kiếp sát hại sinh mạng nhiều không thể kể, thậm chí cho đến vật không ăn được chúng nó cũng giết rồi bỏ đi. Tội ác tày trời nên chúng nó phải đền mạng không làm sao được, không ai xin hay thay thế được, dầu cho cha con đi nữa thì cũng tội ai nấy chịu đành như vậy”. Đến đó tôi bèn từ giã Thập điện để trở về Nhứt điện.

TRỞ VỀ CÕI DIÊM PHÙ ĐỀuiao nhu
Về Nhứt điện, tôi đến lễ đức Địa Tạng và đức Quan Âm, ngài nói: “Ngày nay ngươi khám phá Địa ngục xong hãy về nói cho người đời nghe lại và phải cố gắng in kinh ấn tống ta hộ trợ cho, ngươi có tâm độ người Địa ngục, nhưng chưa bằng độ chúng sanh ở cõi Diêm phù, vì ở đó chúng sanh còn tạo tội thì Địa ngục không ngày nào cho hết. Hôm nay ta trợ duyên cho ngươi ba chung nước để ngươi định tâm nhớ việc Địa ngục nói cho chúng sanh nghe lo đi tu hành, quy y giữ giới ăn chay, cữ sát sanh thì không còn sa Địa ngục nữa. Trong kiếp này ngươi vì trả nghiệp nên kinh luật chẳng thông, bỡi vì không được làm thầy ai hết. Sau này ngươi cũng mở đạo nhưng đạo của ngươi chỉ dụng Pháp phá Địa ngục”.  Hiện nay nhơn duyên của ngươi phải theo giáo pháp Đại Thừa dùng phương tiện hóa độ chúng sanh và khuyên người chớ lầm mê đốt đồ mã để cầu siêu vô ích, Khuyên người nên tụng kinh niệm Phật, cữ sát sanh và in kinh ấn tống như vậy rất dễ tiêu nghiệp chướng, sớm được giải thoát”

GẶP THẦY TIỀN KIẾP
Bồ Tát nói tiếp: “Ngươi có biết sư trưởng Minh Ngọc không? Sư trưởng Minh Ngọc là thầy của ngươi ở kiếp tu hành thứ ba, nay đang giáo giáo hóa Ni chúng, vậy ngươi nên tìm đến thọ giáo để hành đạo”. Tôi nói: “Bạch đức Bồ Tát, con nguyện vâng lời, dầu cho khổ sở hay trải qua muôn vàn kiếp con cũng không chán nản, con nguyện làm sao cho chúng sanh sớm tỉnh ngộ quay về Phật Pháp là con vui lòng”. Bồ Tát nói: “Lời nguyện của ngươi sẽ  thành và sau này sẽ chứng quả”. Tôi bèn lễ Đức Bồ Tát Quan Âm và Bồ Tát Địa Tạng xong rồi đến từ giã Nhứt Điện Tần Quảng Vương để trở về cõi thế, ngài cũng khuyên tôi vế rán độ chúng sanh tu hành theo Phật.

QUA CẢNH LONG VƯƠNG
Tôi cùng chư Thần qua cảnh Long Vương để tạ ơn ngài ba phen cho rồng đưa rước, khi vào đến đền Long Vương cung điện nguy nga, cảnh trí tốt đệp xinh tươi, muôn vàn rực rỡ hơn cảnh địa ngục xa lắm. Đức Long Vương từ trên ngai vàng bước xuống đón chào, ngài nói : “Hiền tăng nay trở lại cõi Diêm phù xin cũng vì Trẫm mà độ công chúa con của Trẫm đang bị đọa ở cõi Diêm phù tu hành theo Phật, Hiền tăng muốn cần bao nhiêu Long thần hộ trợ Trẫm sẽ giúp cho”. Tôi nói: “Bạch ngài, việc độ công chúa tu hành tôi xin lãnh, còn việc xin Long thần hộ trợ xin ngài cũng hoan hỉ tôi không dám ước mong”. Kế đó tôi cùng chư Thần tạ ơn Long Vương đã ba phen cho rồng đưa rước và kiếu từ ngài để trở về cõi thế. Đức Long Vương cùng bá quan tiễn đưa ra tận bờ biển rồi ngài cho thần rồng đưa chư thần cùng tôi qua biển lạnh. Khi tới ranh giới loài người, sau khi cảm tạ thần rồng, chư thần đưa tôi về nhập xác như kỳ trước, lúc ấy đúng 12 giờ ngày 13 tháng 10 năm Dần.
Thời gian tôi quên sư trưởng Minh Ngọc vì cứ lo nói chuyện Địa ngục cho đến khi có vị Thánh nữ mách bảo trên Quan Âm tu viện không yên và thiếu hụt, nhớ lại lời Bồ Tát nói tôi liền tìm thầy tiền kiếp là sư trưởng Minh Ngọc thọ giáo, rồi từ đó lo hiệp lực với Thầy hoằng dương Phật Pháp.
Tôi cũng khuyên nhiều chị em in kinh ấn tống, nhờ sự gia hộ của Bồ Tát nên được nhiều vị hảo tâm đã và đang giúp đỡ tôi làm tròn sứ mạng lớn lao ấy.
Trước khi dứt lời, tôi xin đem phước lành cầu nguyện cho tất cả pháp giới chúng sanh chóng quay về bờ giác.

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT.
Cô Ba cháo gà nói
THÍCH NHỰT LONG lược ký





LỜI KHUYÊN
Lão Tử nói: “Ngô hữu đại hoạn do ngô hữu thân, ngược ngô vô thân hà hoạn nhi hữu”. “Ta có hoạn lớn do ta có thân, bằng ta không thân làm gì có hoạn”.
Thật vậy, xét kỹ tội lỗi của thân người mà ghê tởm, thử nghĩ một kiếp sát sanh mà tội lỗi tày trời như Cô Ba cháo gà, huống các tội khác: nào là đạo tặc, dâm tà vọng ngữ si mê còn dường nào. Nay đem một khía cạnh tội sát ra mà luận: chúng ta có thân này, không biết bao nhiêu mạng chết chỉ nuôi có một mình thân sống này mà thôi, cái bao tử của con người là một  cái nghĩa địa, trong đó có chôn không biết bao nhiêu xương máu. Một bữa ăn của ta chỉ sát hại một ít sanh mạng, nhưng nhiều bữa thành ngày, nhiều ngày thành tháng, nhiều tháng thành năm, rồi nhiều năm thành đời. Từ vô thỉ đến nay chúng ta sanh lên chết xuống bao nhiêu số kiếp, tội sát của mỗi người to như núi, lớn tợ biển, vì vậy cho nên lâu lâu cộng nghiệp khiến nên giặc giã đao binh sát phạt để thanh toán nợ xương máu cho nhau.
Giặc giã đao binh khổ sở này không thể đem đổ lỗi cho ai, không phải trời làm, đất tạo không phải ai tất cả, mà chính do chúng ta tạo nghiệp sát đã nhiều đời nhiều kiếp. Hiện nay chúng ta có mặt ở thời chiến tranh này là do nghiệp sát mà có; những người đã chết là họ đã trả nợ xương máu nhiều kiếp nhiều đời. Chúng ta còn sống trong phập phồng sợ hãi, lo âu là cũng vì nợ xương máu nhiều đời nhiều kiếp, chúng ta còn chút phước lành tạm an lạc rồi cứ xuôi tay theo hai chiều ăn ngủ không lo tu hành thì oan gia không sớm thì chầy nó âm thầm đến.
Không phải chúng ta tạo tội rồi cứ chịu quả báo nhứt định, mà theo Phật dạy chúng ta còn phương pháp cải thiện được không khó.
Nho có câu:
“Thế sự vô nan sự,
Đô lai tâm bất chuyên;
Tạc sơn thông đại hải,
Phi vụ đổ thanh thiên.”
Nghĩa là:
Ở đời không có việc gì khó,
Đều do tâm không chuyên mà thôi;
Có thể đục núi thông ra biển,
Vén mây mù thấy trời xanh.
Lại có câu: “Nhứt chí động khí, nhơn định thông thiên”.
Nghĩa là: Quyết chí thì có một năng lực mạnh, mình định lấy nghiệp mình không phải trời làm.
Chỉ vì chúng ta không làm cứ xuôi tay theo định nghiệp thì thôi bằng muốn cải thiện cho khỏi tai ương, cũng như quả báo nơi địa ngục thì nên cố gắng tập ăn chay, cữ sát sanh, thường ngày tụng kinh, niệm Phật, nhờ Phật cầu sanh về Tịnh độ chớ có chần chờ. Thân người khó đặng, Phật Pháp khó gặp, sống ngày nay khó đảm bảo ngày mai, thân như cá cạn nước nào có vui gì mà chẳng lo tu.
Cần yếu nên xuất tiền bố thí, phóng sanh để đền bù tội trước. Vì cái mừng được sống không có mừng nào hơn, ví như có người nào bị bắt oan, sắp bị giết, thế mà nhờ lời nói nào đó được tha bổng, thử hỏi có mừng nào hơn; loài vật tuy nhỏ, nhưng khi được tha, được sống  cũng mừng như vậy. Kinh gọi là: “hỷ khí xung thiên”. Cái mừng động lòng trời, đem công đức phóng sanh này thì cầu gì không được.
Vậy quý vị nên làm những việc vừa kể trên nhứt là phóng sanh, để cầu siêu cho ông bà, cha mẹ, thân bằng quyến thuộc, và cầu hiện tại cho gia đình được tiêu tai nạn, quốc gia được an trị, thế giới sớm hòa bình, nhân dân an lạc.
Cổ Đức có câu:
“Nhứt thiết chúng sanh vô sát nghiệp,
Thập phương hà xứ động đao binh;
Gia gia hộ hộ thường tu thiện,
Thiên hạ hà sầu bất thái bình.”
Nghĩa là:
Tất cả chúng sanh không nghiệp sát,
Mười phương nào có động đao binh;
Nhà nhà chốn chốn đều tu thiện,
Thiên hạ làm gì chẳng thái bình.
Mong thay!
Thích Nhựt Long cẩn chí.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét