
ĐÀN CƠ LẬP  TẠI THANH QUANG THÁNH TỊNH
Đêm 15-2 Đại  Đạo năm thứ 11 (1936)
Chứng Đàn : Nguyễn Quang Châu
Đồng Tử : Thanh Long, Bạch Hổ
THI
THÀNH tâm  tiếp lịnh thọ Thiên ân,
HOÀNG chúc  kim niên rõ chí thần;
BỔN phụng  mạng hành linh Thánh bút
CẢNH trần  còn lắm kẻ mê tân.
THI
LÝ chiếu hào  quang thúc bóng thiều,
THÁI bình  vạn loại hưởng ân nhiêu;
BẠCH minh tà  chánh lời công luận
GIẢNG luận  trời Nam buổi xế chiều.
THI  TỰA
TÀ tây xâm  lấn buổi lầm than,
CHÁNH lý  khai cơ dạy rõ rang;
YẾU đạo chơn  truyền tu giải mộng,
NGÔN từ giáo  hóa chỉ đôi đàng.
PHÚ LỐI  VĂN
Lúc sanh  tiền không lo un đúc miếng từ tâm khi tử hậu mới than thầm, ôi! đà quá  muộn.
Gìn một kiếp thân sanh sao khỏi uổng, biết bao nhiêu là ý muốn của con ma đời.
Sửa nhân luân nhờ nơi mối đạo Trời, kêu khách tục khá nghe lời giáo hóa.
Kìa cảnh tục đổi xây coi cũng lạ, biết lấy đâu mà hoằng hóa sửa ân sanh.
Nhìn cuộc thế châu rơi đà lã chã, cảnh thuần phong xem cũng lạ với thợ đời.
Biển ái hà sanh chúng chớ trò chơi. Còn lặn lội trong đời đừng mượn cảnh nghỉ ngơi mà lạc nẻo. Chóng lần lên cho khéo kẻo sa hầm.
Dặn tấc lòng lo thay đổi sửa lương tâm, lời ngon ngọt chóng nên tầm theo Chánh Đạo.
Cõi trần  thế rõ xem tường là nơi mộng ảo diệt oan khiên, mà thấu đáo sửa cơ  mầu.
Chớ mến yêu cự các, cao lầu, nầy là cõi bể dâu có chắc được bao lâu mà cũng hầu nương dựa.
Bốn vách khổ thật là không có cửa, sớm biết lo lần lựa mối chân thành.
Lời Phật, Tiên dạy dỗ đã đành rành, thức tỉnh mộng trống giục canh đà thúc đổ.
Kiếp sanh hóa lạc vào nơi bể khổ, đường vạy ngay lưỡng lộ sẵn kia kìa.
Lúc sống  còn không rèn luyện trau tria, khi kiếp thác biết đâu về nơi cựu vị.
Nhìn cuộc thế thái rồi tới bỉ, dạy chúng sanh tìm đường sanh ký với tử qui. Kìa Trương Lương dưng dép dưới châu bì, công quả ấy còn ghi đền đáp trả.
Rày sanh-chúng có chi răn lạ.
Hễ “thực qua thì hậu quả đắc qua”.
Cõi trần gian chi thú cũng Ta bà, kìa hải đảo ngâm nga lời phú vịnh.
Quy Tam Giáo vừa nơi hội Bính.
Hiệp Ngũ Chi mà thức tỉnh đám ngây khờ.
Mượn bút thần sắc lịnh Ngọc cơ, bày lý diệu dạy đám mịt mờ trong bể khổ.
Truyền Đại Đạo lần ba Phổ Độ vì chúng sanh nên thi thố máy hành tàng, cả khắp nơi rực rực huy hoàng, đèn giác ngộ rõ ràng thêm sáng tỏ.
Phận cui cút đành chịu cơ lem với lọ, kẻ chá đầu người phỏng trán, mà ai có ra gì?
Sớm không lo học đạo từ bi, đành quen thói vô nghì hơi nực nội.
Máy luân chuyển sớm mai rồi cũng tối, mến lợi danh còn lặn lội chốn mê đồ.
Khá rèn lòng lo niệm chữ Nam Mô, mà thức giấc điệp hồ cơn sóng bủa.
Mồi vật chất nào là sa số gấm lụa, khiến cho người đều mê muội theo đời.
THI  BÀI
Đời vừa lúc  hạ nguơn mạt kiếp,
Thương chúng  sanh giấc điệp mơ màng;
Pháp môn mở  rộng con đàng,
Vạch câu tà  chánh rõ ràng cao xa.
Hỡi nhơn  loại ái hà mê muội,
Sao chẳng  thông đạo buổi Tam kỳ;
Dạy đời  giác ngộ quy y,
Biết câu  chân lý biết kỳ hoằng khai.
Lời phổ hóa  đôi bài lý yếu,
Cho chúng  sanh được hiểu lựa lần.
Có công rồi  cũng có phần,
Nhờ ơn chỉ  lối mau lần bước lên.
Phải un đúc  một nền phước hậu,
Máy hành  tàng hiểu thấu lời Ta;
Mấy thu  trong cõi Ta ba,
Bao lời  Thánh huấn dạy ra nên tường.
Kiếp hầu  chuyển tang thương khổ não,
Luật thiên  nhiên cơ tạo nhiệm mầu;
Dạy đem Yếu  Lý làm đầu,
Cho người tu  niệm mới hầu quả xưa.
Đời lắm nổi  nắng mưa ấm lạnh,
Biết đâu  phân lời thánh tiếng phàm;
Mấy lời dạy  lúc canh tam,
Mượn nhành  dương liễu luận đàm lời khuyên.
Câu đạo đức  cần chuyên vẹn nhớ,
Việc tu trì  trả nợ bồi công;
Phải tua nao  nức tấm lòng,
Biết dò nẻo  chánh mới hòng nơi cao.
Trên gối  điệp chiêm bao mơ tỉnh,
Gắng  thành tâm vui thính lời Ta;
Thế gian  đâu phải là nhà,
Không tu  một kiếp khổ mà ngàn thu.
Phận cực  khổ lo bù lúc khổ,
Kiếp nặng  nề tìm chỗ giải oan;
Lời ta dạy  thật rõ ràng,
Chúng sanh  kíp lựa con đàng chánh chơn.
Kìa bể  khổ thua hơn chi đó,
Kiếp con  người gẫm có là bao;
Trau dồi  đức trọng tài cao,
Biết ơn  Tạo Hóa biết màu thiện tâm.
Lời giáo  huấn canh thâm tường tất,
Các nguyên  nhân vui thật trung hòa;
Hay chi chìm  nổi ái hà,
Hôn mê linh  tánh sa đà phù sanh.
Đừng ham  muốn lợi danh ràng buộc,
Kiếp phù  sanh phỏng được là bao;
Giới quy  hai chữ làm đầu,
Học làm lý  diệu tu cầu đức cao.
Nhìn trần  cảnh biết bao nông nổi,
Khôn đành  xem lạc lối tà tây;
Lời châu  khuyên nhủ dạy bày,
Có lao lý  mới mong ngày thanh cao.
Đời chẳng  rõ phong trào luân chuyển,
Chuyển nhân  tâm liệu biện sửa mình;
Có thân thì  đức phải gìn,
Có phân tà  chánh, mới tin sửa lòng.
Kẻo ngày  tháng mắc trong ách khổ,
Dụng tam  tông mà độ sửa đời;
Nhơn luân  phong hóa đổi dời,
Phải tin  rằng có Thầy Trời chủ trương.
Trai gìn  trọn năm thường, ba mối,
Chớ tưởng  lầm nhà tối vắng không;
Gái lo Tứ  đức Tam tùng,
Nết na đằm  thắm tư dung nhu mỳ.
Tròn nhơn  đạo quy y theo Phật,
Dứt duyên  trần Lục, Thất lánh xa;
Diệu đề  chánh Đạo tìm ra,
Tam quy Ngũ  giới ấy là pháp môn.
Dùng Đạo  lực mở hồn sanh chúng,
Chí trượng  phu nên dụng sửa đời;
Lặng xem  dâu bể đổi dời,
Rõ thông cơ  tạo biết thời Đạo khai.
Lời Thánh  huấn trọn bài yếu lý,
Dạy chỉ rành  phi thị đôi câu;
Chớ mê sang  đẹp các lầu,
Vinh bao  nhiêu lắm nhục hầu bấy nhiêu.
Ngựa qua  cửa, bóng thiều nhặt thúc,
Sướng vui  chi câu thúc chuyện đời;
Thinh thinh  dưới đất trên Trời.
Thế gian là  chỗ nghỉ ngơi lọc lừa.
Đời mau lẹ  chiều trưa thấy đó,
Luật tuần  huờn gẫm có bao lâu,
Rõ câu thiên  ốc thiềm đầu,
Chớ rằng  chẳng có lý mầu Thiên công,
Kìa kiếp  tục não nần cho phận,
Còn đeo đai  lận đận một đời;
Sớm còn hoi  háp chút hơi,
Tranh đua  sức mạnh cao lời ích chi?
Đời mạt kiếp  nạn nguy nhiều nỗi,
Trả sao cho  sạch tội tiền khiên;
Mới toan dồi  luyện tánh thiêng,
Lọc lừa vật  lụy tìm yên thiện từ.
Đời sanh  chúng mang từ bao kiếp,
Phải tỉnh  mê cho kịp sửa mình;
Bớt phen  dăng díu nghĩa tình,
Học câu Bác  ái Công bình Từ bi.
TIẾP  BÀI
LÝ mầu nhiệm  vô vi chỉ rõ,
TRƯỜNG công tu đến  đó lãnh phần,
CANH  tàn ngọc  bút  bày phân,
Tiếp truyền  chơn đạo mấy lần rồi đây.
Hỡi khách  trần đắm say chung đỉnh,
Nghe lời  khuyên mau tỉnh giấc hòe;
Cuộc đời  còn lắm éo le,
Có vinh thì  nhục ám dè theo sau.
Xem tàn linh  lỡ đau lỡ khóc,
Khóc bớ  người chớ học thói ma;
Nhìn xem mấy  dặm quan hà,
Thật là bao  nã thật là cam go.
Chúng sanh  ôi! hiểu cho thấu đáo,
Hội Trung  thiên Thánh Đạo ra đời;
Nắm dây nhờ  có Thầy Trời,
Chỉ đường  chơn lý khuyên mời khách mê.
Kiếp con  người não nề cam phận,
Thói yêu ma  lận đận bốn bề;
Thấy vầy Lão  luống lòng ghê,
Ghê cho kẻ  dại quên về cựu bang.
Chốn  hồng trần tiền ngàn bạc vạn,
Nỗi dinh  hư quả mãn cũng rồi;
Thế gian  mấy kẻ yên ngồi,
Tấm thân  hữu hoại nghĩ thôi chác lòng.
Về Tiên gia  Trời trong mát mẻ,
Đài Kim  liên hạc ré chực chầu;
Tràng phang  bửu lạp kim châu,
Nào khi  nhược thủy nào cầu ngân ô.
Khi dạo gót  Thương ngô Túy liễu,
Lúc nhàn du  Viễn kiệu Phương hồ;
Bồ đào rượu  chước hồ lô,
Khoan khoan  tiếng vịnh hoàn đồ Tiên ngâm.
Cảnh như  vậy ai tầm bước đến;
Chỗ hồng  gian yêu mến chi mà;
Sống đau  rồi đã thấy già,
Nỗi con,  nỗi vợ, nỗi nhà, nỗi lo.
Kiếp cam  đành trong lò danh lợi,
Phận cút cui  cũng ngợi danh trò;
Cứ ham chọn  hạc đổi cò,
Thấy người  có lợi lòng lo như người.
Tưởng  tấm thân trọn đời bay nhảy,
Nợ trả  vay khó chạy qua Trời;
Biết đâu  phần phước đổi dời,
Lo chưa  phỉ dạ luật Trời Diêm Vương.
Ối thôi  thôi! Bốn tường rất khổ,
Tửu, dắt người  đến chỗ mê man;
Lòng sanh kế  xảo mưu gian,
Tửu trung  quân tử lời vàng Lão khuyên.
Sắc, cám người  lòng Tiên hóa tục,
Hại nguơn  thần câu thúc khí tinh;
Lỡ thân vào  chỗ trường tình,
Biết bao  nông nổi thể hình ốm đau.
Tài,  dục kẻ tham  giàu đeo đuổi,
Trọn đời  người sớm tối siêng lo;
Lòng tham  muốn được lợi to,
Kể chi thân  tộc miễn cho được phần.
Vì vật chất  hư thân hại thể,
Vì tiền tài  mất lễ mất nhơn;
Khí là phải  chẳng đâu hơn,
Sân, si, ố,  nộ, chẳng cần chẳng kiên.
Khiến cho  người tâm điên trí đảo,
Thốt ra lời  tàn bạo lầm sai;
Một lời, một  quấy, một sai,
Xem trong  nhân loại phiền tai dẫy đầy.
Cũng bởi  đời giấc say chưa tỉnh,
Cám lòng  thương linh tánh một bầy;
Vì thương  Lão nhắc lời nầy,
Muốn thành  Phật quả phải dày công tu.
Cuộc thế tàn  mấy thu ngơ ngáo,
Chuyển Tam  kỳ giáo đạo Nam bang;
Độ đời thoát  chỗ lầm than,
Biết nơi  Tiên CẢNH, Thiên đàng là đây.
Nhấm mùi  đời biết cay biết đắng,
Chớ sa  mê hụp lặn đắm chìm;
Xét rành  tự cổ chí kim,
Mấy ai  mê muội mà tìm được cao.
Cuộc đỏ  đen anh đào phải lụy,
Lụy vào  nơi tài, khí, tửu tham;
Mùi đời  ai nếm cũng ham,
Cũng là  một bổn tâm phàm dại khôn.
Mê giấc hòe  lấp chôn thân thể,
Nợ mình gây  chứa để dập dồn;
Làm cho xiêu  lạc linh hồn,
Mất phần  chơn tánh bảo tồn chi đâu.
Biển ái  hà, càng sâu, càng thẳm,
Bớ đời  ôi!! Chớ ngắm mà lầm;
Chôn  người mất trí mất tâm,
Mất luôn  tam bửu khó tầm linh căn.
Chẳng mấy  khi hóa hoằng Chánh đạo,
Dạy cho đời  tường đáo linh cơ;
Than ôi!  khờ thiệt quá khờ,
Cứ ham  đường tối mịt mờ nẻo ngay.
Vì thương  người chỉ bày lý triết,
Trai năm  hằng phải biết nghiệm suy;
Nhơn là cấm sát  bất vi,
Nghĩa lo xong  việc phải tùy theo cơn.
Lễ là lo chớ  sờn lễ nghĩa,
Trí phải tri  mỗi phía cuộc đời;
Tín  là lòng  chẳng sai dời,
Anh em bạn  hữu mỗi lời gắn ghi.
Đạo tam cang  phải tùy Nho giáo,
Nghĩa vua  tôi giữ Đạo công bình;
Cha từ con  thảo nên gìn,
Chồng hòa vợ  kỉnh gia đình mới nên,
Khuyên Nam,  Nữ đôi bên nên nghĩ,
Đạo từ xưa  rành chỉ cho rồi;
Đau lòng  lắm hỡi đời ôi,
Vì đâu quên  cả hết rồi vậy a?
Phận Nữ nhi  ngắm đà chua chát,
Chữ Tam Tùng  phải tạc vào tâm;
Tùng cha  thuở bé chớ lầm,
Lớn Tùng Phu  phải công tâm với chồng.
Chồng tiên  tử phải tùng chữ tử,
Vui trọn  niềm bảy lự ba lo;
Ấy là luân  lý nhà Nho,
Nay qua  Thích Đạo học cho nhiệm mầu.
Đường qui  giới đôi câu nhắc nhở,
Đạo khuyên  đời trả nợ mình gây,
Muốn về Cực  Lạc phương Tây?
Học theo  Phật Pháp nghe Thầy giảng kinh.
Luận thử  câu Công bình Bác ái,
Lo xong rồi  đến Đại Từ bi;
Thương thay  mấy kẻ vô nghì,
Quên đường  tiên cảnh chờ khi người về.
Vì nhân loại  thảm thê lầm lạc,
Đại Thiên  Tôn phổ hóa ba kỳ;
Gầy chung đủ  cả năm Chi,
Cả kêu khách  tục trí tri hiểu tường.
Cuộc thế  tàn tan thương biến cải,
Bớ nguyên  nhân lưỡng phái nghe lời;
Chuyển xây  gầy mối Đạo Trời,
Dạy người  cải hóa dạy đời tu tâm.
Gặp thời  gian còn lầm nhiều nỗi,
Khó chỉ  đường vạch lối cao xa;
Chúng sinh  còn hỡi lòng ma,
Phải tùy cơ  Đạo truyền ra cứu đời.
Tồn dưỡng  tánh hôm mai tập học,
Học cho  xong lừa lọc mỗi người;
Mới là thấu  đáo cơ Trời,
Mới tường  mầu nhiệm thoát nơi hồng trần.
Chuyển ngũ  hành tu tâm luyện tánh,
Gìn tam  nguơn, đủ ảnh tam tài;
Thế tình còn  nỗi lầm sai,
Nên Thầy  Thượng Đế Cao Đài quy nguyên.
Đạo Thánh  rồi Đạo Tiên mới chỉ,
Chỉ cho đời  tường lý mê tâm;
Bớ ai chớ  vội mà lầm,
Tam Thiên  lục bách theo tầm đoạt ngôi.
Nhắc tới đây  bồi hồi lòng Lão,
Hãy nghĩ coi  khéo tạo như vầy;
Chít chiu  nhơn loại một bầy,
Mở đường Tôn  giáo nơi nầy giáo dân.
Trên Thiên  đình cầm cân chơn lý,
Chẳng ai  qua một lý tà tâm;
Khuyên đời  nay dụng quốc âm,
Có theo  thời cuộc cơ thâm máy Trời.
Gió văn minh  đổi dời phong hóa,
Hóa nhơn tâm  một bả điêu tàn;
Lỡ cười mà  cũng lỡ than,
Tiếng kêu kẻ  dại chứa chan lòng phàm.
Thấy  tình đời sân tham ái dục,
Giục  tánh mê chẳng chút nào hay;
Tứ tường  say đã quá say,
Mê tâm  muội tánh đặt bày sự ngoa.
Thấy như  vậy lòng ta bức rức,
Giục chuông  ngân tỉnh thức mộng trường;
Bớ đời thế  thói chớ vương,
Vương ma  danh vọng quên đường chánh nhơn,
Kẻ sang vinh  khi hờn kẻ khó,
Ỷ mượn hơn  tìm ngõ trớ trinh;
Còn chi hai  chữ nghĩa tình,
Kẻ khôn  người bợ thì mình càng lung.
Đội một  trời cũng chung một giống,
Ở ngôi cao  ưa giọng cúi chào (cười . . .),
Chào thưa  vì bởi danh cao,
Mãi ham  quyền lộc nhớ nào trời xanh.
Miễn lo  cho của dành con cháu,
Tiền mồ  hôi giọt máu kẻ nghèo;
Hay chi  chung cuộc như bèo,
Linh  đinh nhờ nước bỏ dèo trôi xuôi.
Lão nhắc  thôi ngậm ngùi dạ ngọc,
Thấy mà đau  muốn khóc, khóc òa;
Trần gian là  cảnh Ta bà,
Lợi danh cho  mấy khó mà khỏi suy.
Vinh trước  rồi nhục thì sau đó,
Đỏ hết màu  thì lọ luốc lem;
Nào ai biết  chế biết kềm,
Biết đường  tà chánh mà đem thân về.
Nghĩ gớm  ghê kẻ chê người thị,
Thị sức  mình nào nghĩ ngày sau;
Kiếp  người gẫm thiệt là mau,
Trăm năm  mấy kẻ được bầu tròn duyên.
Vì thương  đời Lão khuyên đôi khúc,
Biết tìm nơi  trong đục mà dò;
Không nài  cái phận đói no,
Biết lo tu  niệm, biết lo độ đời.
Đưa hiền  lương về nơi thanh cảnh.
Được tiêu  diêu sớm lánh cõi trần;
Bồ đào liên  bửu tay nâng,
Đào viên  yến ẩm chín tầng đờn reo.
Chim già  lăng tiếng kêu thảnh thót,
Rượu Đề hồ  châm rót khuyên mời;
Mời người  thoát tục nhấm chơi,
Điệu tiên  gẫm có khác đời lắm chăng?
Cảnh Bồng  Lai khi thăng khi giáng,
Ngũ sắc vân  chói rạng hừng Trời;
Không  chiều, không sớm, không mơi,
Không danh,  không lợi như đời phàm gian.
Không như  thể khi tan khi hiệp,
Chẳng như  đời mãn kiếp trầm luân;
Ai trông  bách tuế mà mừng,
Mừng nầy đây  thiệt là mừng oan khiên.
Ngày chí  đêm than phiền nề não,
Nỗi nợ đòi  hết gạo ai lo;
Mỗi ngày  cái khổ càng to,
Đông con,  đông cháu, còn lo nhiều bề.
Khi sớm mai  cày thuê cuốc mướn,
Gáp nháp lần  khi mượn khi vay;
Than ôi!! ai  hỡi có hay,
Hay chi kẻ  thế đắng cay như vầy.
Người sang  vinh lại bày việc  mỵ,
Kẻ xoa mưu  giục chí người cô;
Phỉnh phờ  tiền của thâu vô,
Miễn cho  đầy túi đầy bồ thì xong.
Dạ đao kiếm  tấm lòng độc ác,
Cũng chẳng  qua không chát thì chua;
Ỷ mình giành  giựt hơn thua,
Tửu, trà,  phú quý tranh đua nhộn nhàng.
Đắm bao  nhiêu lòng càng điên đảo,
Mãn một  đời tội báo trả vay;
Hết tài  giỏi chạy cao bay,
Ôi thôi!  Địa Phủ hôm nay đã đòi.
Của muôn  ngàn khôn mua đặng sống,
Cháu còn  đầy, thế ổng được chăng? (cười)
Mới hay  Thiên đạo công bằng,
Chẳng tư  chẳng vị kẻ hèn người sang.
Nghĩ cuộc  đời chứa chan bao nã,
Đời chưa  tròn bỗng đã mãn căn;
Đây rồi mới  biết ăn năn,
Mới hay  chánh lý là đèn phá ngu.
Mãn một  kiếp đường tu còn vụng,
Nhắm mắt  rồi mới uổng thân sinh;
Trầm  luân mãi phận cam đành,
Cũng vì  kiếp trước không dành duyên thêm.
Còn sang  trọng còn em còn chú,
Hết tiền  tài thúc thủ ngồi than;
Than ôi!  Kim tận đầu sàng,
Vô phương  tráng sĩ mưu toan chước tài.
Luật  công bình nợ ai nấy trả,
Gầy bao  nhiêu thì phá cũng đồng;
Luật  Trời xem thiệt chí công,
Nghe lời  Lão giảng mặn nồng phá tan.
Kiếp lỡ rồi  tìm đàng trở lại,
Nợ trái oan  cũng tại mình gây;
Dại khôn nỗi  nọ thế này,
Kíp nghe lời khuyến mở  dây oan trần.
Lo  âm  chất nhờ ân  cứu khổ,
Học đạo mầu  ráng giỏi công tu;
Biết rằng  cực lạc ngao du,
Danh thơm  còn rạng muôn thu chói ngời.
Lão luận thử  đôi điều yếu lý,
Lý cao xa  huyền bí cơ mầu;
Bớ ai cải  quá hồi  đầu,
Mùi đời chán  ngán mới hầu Tiên gia.
Về cảnh  Tiên chẳng xa gần tới,
Khỏi Tam  quy, ngũ giới đến rồi;
Đó là phản  bổn về ngôi,
Lánh lòng  nô lệ cho đời rảnh rang.
Động Hồ Tiên  du nhàn tự toại,
Chẳng tiền  đòi nợ hỏi chi chi;
Dạo chơi  Bạch Ngọc Liên Trì,
Vẽ cơ vui  hứng cầm thi ngâm hòa.
Chẳng lo  phần Cha già Mẹ yếu,
Cũng không  màng bữa thiếu bữa no;
Nhàn du Tạo  Hóa một lò,
Khi cờ tứ  cảnh khi dò kim xa.
Chẳng như  đời hư nhà nát cửa,
Nỗi nắng mưa  nương dựa qua ngày;
Đường Tiên  kẻ ép người này,
Sao không  tỉnh ngộ mà quầy lên đây.
Về Phật  quốc Phương Tây cực lạc,
Tắm cam lồ  nước mát mùi thơm;
Rỡ ràng hoa  trổ quả đơm,
Liên tòa  bát ngát mùi thơm nực nồng.
Tiếng ngân  nga Tiên đồng Phật tử,
Giọng khoan  hòa hò xự không không;
Mỗi ngày  luyện đủ lục thông,
Thông tri  kiến sự độc tông vạn thùy.
Hết Thiên  đường Âm ty Lão nhắc,
Qui  vô  thường dẫn  dắt tội nhơn;
Ai mà chí  chính chí nhơn,
Phướng Thần  theo dõi là cơn đăng đàn.
Kẻ gây  nghiệt trần gian ở lại,
Xử cho xong  quấy phải hai đường;
Nghĩ mà thêm  tiếc thêm thương,
Trần gian  chung hưởng, Diêm vương một mình.
Nghĩ đến  thôi càng kinh càng sợ,
Bởi vợ con,  con vợ thế giùm;
Đến đây khó  bọc khôn đùm, (Cười. . .)
Lót ngài  nhiều ít mở cùm tha tôi.
Ôi thôi rồi!  Chủ ngồi mới nhớ,
Cũng tại  mình gây nợ thế gian;
Ai chừ nhắn  nhủ hỏi han,
Khuyên trong  thân tộc tìm đàng tu thân.
Quyết  một lòng đai cân bỏ phế,
Giàu  sang nghèo chẳng kể là ai;
Miễn cho  khỏi xuống Diêm đài,
Quan dân  trối mặc giới trai lo gìn.
Việc lỡ rồi  mới tin Thần Thánh,
Khuyên  chúng sanh dưỡng tánh tâm tồn;
Mong sao độ  rỗi linh hồn,
Khỏi nơi  hành phạt nợ dồn trái oan.
Nghĩ cuộc  đời thương tang biến cải,
Vì chúng  sanh lưỡng phái say mùi;
Đạo Trời mà  hóa dễ duôi,
Cũng vì kẻ  tối dắt đui đi đàng.
Nên Ngọc Đế  Nam bang giáo Đạo,
Độ tàn linh  thiện, bảo Nguơn thần;
Trọn quyền  chẳng để phàm nhân,
E khi thay  đổi lắm phần sai ngoa.
Vì sanh linh  Lão đà ứa lụy,
Cõi Á đông  phúc ký Đạo Trời;
Tam gia  quyết tận độ đời,
Giao quyền  chủ thống Thầy Trời độc tôn.
Bớ chúng  sanh tĩnh hồn nghe hiểu,
Biện lý  chơn toan liệu hai đường;
Lánh trần  bỏ thói tư lương,
Học câu  thiện niệm tầm đường về ngôi.
Miếng  chung đỉnh như mồi rước khách,
Khách  giác mê diệt sạch tâm trần;
Đổi làm  thiện đức tân dân,
Thì coi  chữ phú chữ bần như nhau.
Biết sửa  đời mau mau hồi tỉnh,
Tỉnh nghe  lời Tà Chánh Yếu Ngôn;
Độ nhơn,  chơn tánh bảo tồn,
Trong veo  lóng kỹ linh hồn chớ nhơ.
(Trích Kinh  “Tà Chánh Yếu Ngôn” do Đức Lý Thái Bạch giáng cơ dạy Đạo)