Thứ Hai, 18 tháng 10, 2010

Tây Vương Thánh Mẫu Chơn Ngôn Kinh

 

TÂY VƯƠNG THÁNH MẪU
CHƠN NGÔN KINH
 ( Đàn tại Long-Xuyên đêm 14 rạng 15 tháng 8 năm Quí Dậu – 1933)



Tây-trúc thời kỳ dụng Thích-Ca,
Vương-môn để tiếng cậy Di-Đà;
Thánh phàm phân-biệt Du-Đà-Luận,
Mẫu tự kinh tàng Tát-Đản-Đa.
Chơn-Thể, Chơn-Thân đam Phật-Tánh,
Ngôn hành, ngôn sắc, dạy ta bà;
Giác-mê Thầy chuyển Tam-Kỳ Đạo,
Thế giới từ đây Một với Cha.
Đêm trong trắng, trắng trong như lọc,
Nghe tiếng con Mẹ phút chạnh lòng;
Bởi con mến chốn bụi hồng,
Nên con tách Mẹ trùng trùng ra đi.
Tưởng ra đi mãn kỳ trở lại,
Nào dè con chẳng đoái chẳng hoài;
Ra đi Mẹ dặn một hai,
Một hai phải tránh chông gai cuộc đời.
Dặn con phải giữ lời sau trước,
Bước hồng-trần là nước quỉ ma;
Dặn con chớ khá ta-bà,
Dặn con chớ khá kê cà mãi mê.
Dặn con nhớ cảnh quê làm trọng,
Dặn con thường để bụng nằm lòng;
Rằng loài ma quỉ phải phòng,
Rằng loài lưỡi mối nọc ong phải ngừa.
Dặn con phải sớm trưa kinh-kệ,
Dặn con đừng bê trễ công-trình;
Dặn con Mẹ dặn đinh-ninh,
Dặn con phải giữ phải gìn tấm thân.
Dặn con biết mấy lần trân trọng,
Mà con đành rẻ rúng lời khuyên;
Con đành gây cuộc não phiền,
Con đành gây cuộc trần-duyên lao-lồng.
Nay con thấm bẫy vòng cắn-xé,
Con mới đành nhớ Mẹ sao con;
Con ôi! Lòng Mẹ héo don!
Con ôi thân Mẹ vì con hao gầy.
Rày con được Ơn Thầy cứu-độ,
Đem con về phải chỗ phải nơi;
Khuyên con dạy phải nghe lời,
Khuyên con chớ khá giỡn chơi ích gì?
Tu phải biết Qui-Y làm báu,
Qui-Y là nương-náu cửa Trời;
Tu cho kịp tiết kịp thời,
Tu đừng xao lãng những lời Mẹ răn.
Nầy lời Mẹ ân-cần nhắc-nhở,
Thấy con thơ Mẹ ứa đôi hàng;
Thương con trước chịu lạc đàng,
Con ôi phận gái gian-nan não-nề.
Thương con gánh nhiều bề cay đắng,
Thương con dầm lửa nắng nước sương;
Con ôi phận gái đoạn-trường,
Con ôi phận gái chải-bương mới thành.
Tu phải biết việc lành việc dữ,
Tu chừa lòng bảy lự ba lo;
Thầy đà sau trước dặn dò,
Thầy đà chực sẵn chiếc đò Lý-Chơn.
Đò Chơn-Lý Chủ-Nhơn đã chọn,
Chơn qua đò khỏi tốn khỏi hao;
Miễn con trong trắng một màu,
Miễn con sau trước trước sau một niềm.
Tu phải giữ lặng êm là gốc,
Tu phải cha cái nọc nhiều lời;
Con ôi tai họa khắp nơi,
Tại người uốn lưỡi khua môi hại mình.
Giữ một dạ kỉnh-thành làm trước,
Lòng đừng lo họa, phước, có, không;
Có, không là luật chí-công,
Có, không, cũng tại nơi lòng các con.
Đêm thanh-vắng con tròn phận sự,
Đọc Kinh thì ráng giữ lấy mùi;
Đừng ngâm chót lưỡi đầu môi,
Mẹ còn lui tới, tới lui phân trần.
Đọc Kinh phải cân phân từ tiếng,
Tiếng Kinh là Kinh-Điển của Thầy;
Đọc Kinh gẫm được mùi hay,
Dẫu cho sắt, đá, cỏ, cây, cũng thành.
Gái cần giữ thân danh làm trước,
Kế quỉ ma nhiều nước tinh yêu;
Êm tai sáo quyển lòn chiều,
Nếu con nhắm mắt nghe liều hư thân.
Mẹ đã dạy nhiều lần cặn kẽ,
Quỉ thường xưng tên Mẹ lắm con;
Con nào gan yếu dạ non,
Nghe lời bưng bợ ngọt-ngon phải lầm.
Cách đi, đứng, ngồi, nằm, cẩn-thận,
Điệu mỏng mềm ấy phận người tu;
Tránh xa tiếng quến lời rù,
Tránh xa những bợm giả mù sa mưa.
Thấy nhiều trẻ bơ-thờ hõng-hẻo,
Tướng dịu-dàng yểu-điệu khá thương;
Tại sao mang số đoạn trường,
Tại quên những tiếng nghĩa phương ngọc-ngà.
Thương con dại thiết-tha tha-thiết,
Vui vẻ chi mài-miệt cõi trần;
Con ôi xét lấy nàng Hằng,
Trọn năm được thấy mấy lần đẹp xinh.
Mẹ hằng cậy nhắn tin cho trẻ,
Khuyên trẻ đừng bê-trễ công-trình;
Thương con Thầy phế Ngọc Kinh,
Rước con khỏi chốn hỏa-khanh đem về.
Con khá chớ bỏ bê lúc rảnh,
Lúc rảnh thường Tâm Tánh lãng xao;
Tánh Tâm xao lãng phân hào,
Tự nhiên con phải mỏn hao tinh-thần.
Tu phải trọng Chơn-Thân Chơn-Thể,
Thân-Thể nầy gốc rễ của con;
Chơn-Thân, Chơn-Thể, Chơn-Hồn,
Giữ gìn trong sạch mới còn gọi con.
Đừng vụng tưởng phấn son là sạch,
Son phấn làm Chơn-phách phải lu;
Mấy ai rọi kiếng trăng thu,
Mấy ai ngồi kiệu lấy dù che thân.
Đừng vụng tưởng cơ bần là nhục,
Cơ bần là chánh gốc mỗi con;
Lúc sanh đỏ lói một hòn,
Lúc về có kể vật chôn nhng gì?
Con phải nhớ lúc đi Thầy dặn,
Phải cho tròn bổn phận Thầy sai;
Đừng lo phú quí chông gai,
Phải cho xứng đáng Tam-Tài mới xinh.
Chánh Tam-Tài mới vinh mới quí,
Giả tiền-tài đồ mị phá chơn;
Con sao chưa rõ thiệt hơn,
Đã dư mấy kiếp đường trơn bước hoài.
Rày Mẹ nhắc chỗ sai con hiểu,
Hiểu được rồi Mẹ biểu phải nghe;
Nghe rồi cẩn-thận trăm bề,
Tránh đoàn kết đảng, lập phe phỉnh phờ.
Con phận gái lỡ cơ sao được,
Phải dặt dè từ bước mới ngoan;
Sao cho danh gái rỡ-ràng,
Chín mười cho đúng tuổi vàng Mẹ trao.
Cuộc trần thế ảo bào mộng ảnh,
Có chơn tu mới rảnh phù-sanh;
Muốn cho chơn thật tu hành,
Ráng lo gìn giữ kỉnh thành đừng quên.
Người ở thế đặt tên kể tuổi,
Tên tuổi nầy một buổi chẳng lâu;
Mấy tên phú quí công-hầu,
Có đem chi được để chầu Ngọc-Kinh.
Người ở thế danh thinh làm trước,
Thinh danh là cội phước sự tu;
Công, dung, ngôn, hạnh, làm đầu,
Lòng đừng mê-hoặc phải trau sửa mình.
Đừng tập lối văn-minh dối trá,
Văn-minh nầy quỉ phá mấy hơi;
Con ôi Mẹ đã cạn lời,
Rán cho trong sạch tên Người tuổi Ta.
Tên tuổi Ta bao la vũ-trụ,
Tên tuổi Người che phủ thế-gian;
Muốn cho tên tuổi miên tràng,
Ta, Người, tên, tuổi, vững-vàng chớ sai.
Người xuống thế ai ai cũng một,
Phải rõ Người là ruột với mình;
Với mình như một mới xinh,
Với mình như ruột mới rành tuổi tên.
Con phải nhớ chớ quên lời Mẹ,
Được thân người chẳng dễ đó con;
Tuổi tên được vậy mới còn,
Tuổi tên được vậy mới tròn thinh-danh.
Đừng tập nết trớ trinh lêu lỏng,
Theo tánh phàm học giọng cầu cao;
Chị em đừng tiếng mầy tao,
Chị em tiếng nói ngọt ngào mới ngoan.
Lời ăn nói dịu dàng mềm mỏng,
Mới làm cho trên trọng dưới vì;
Học chi cái giọng ngu-si,
Học chi cái giọng dị-kỳ khó ưa.
Đừng học thói đỏng đưa miệng lưỡi,
Mà có khi vướng lưới quỉ ma;
Khôn-ngoan sao bẵng thiệt-thà,
Cứ lời Mẹ dạy mới là gái ngoan.
Con đã chán các đàng tội phước,
Mừng cho con nay được gặp Thầy;
Ơn Thầy rưới khắp cỏ cây,
Con tua tỉnh mộng kịp ngày qui nguyên.
Phần xác thịt ba giềng làm trọng,
Phần Thiêng Liêng phải gióng cho cân;
Chớ hao Tinh, Khí, hại Thần,
Tinh Thần quí báu phải cần phải chuyên.
Thần, Khí, Tinh, Tiên-Thiên làm gốc,
Tinh, Khí, Thần, là nọc hại người;
Con ôi đừng tưởng trò chơi,
Nếu con sai ngược Đạo Trời dễ đâu.
Đừng nghe kẻ mượn màu Đại-Đạo,
Tiên, Hậu, Thiên, ngược ngạo phỉnh đời;
Nếu con sai lạc tấc hơi,
Luân-hồi phải vướng chạy Trời được sao.
Mẹ thấy trẻ khát khao tìm Đạo,
Mà lại tin chuyện ảo rằng chơn;
Con ôi chớ cậy giọng đờn,
Giọng đờn là giọng hại khờn hồn linh.
Con muốn rõ công trình tập luyện,
Tập luyện rành cửu-chuyển phải thông;
Muốn cho cửu-chuyển được ròng,
Gần Thầy mới rõ huyền-công thể nào.
Con phải biết Đạo cao tối trọng,
Đừng để lòng hờ hững sự Tu;
Chớ tin những lủ quáng mù,
Mượn Thầy giả Đạo quyến rù hư thân.
Nghe tiếng trẻ Mẹ mừng cho trẻ,
Trẻ phải mau bước lẹ đường ngay;
Muôn năm mới gặp hội nầy,
Trễ cơ hội ắt đọa-đày vướng-mang.
Đã gặp Đạo gặp đàng chánh-đáng,
Thì phải lo phải ráng công-trình;
Mẹ khuyên bỏ tánh hớ-hinh,
Mẹ khuyên bỏ tánh chống kình chị em.
Tánh kình chống ráng kềm cho dứt,
Nó làm cho Đạo-Đức phải hư;
Con ôi Mẹ vốn Đại-Từ,
Thương con Mẹ nán giờ dư chỉ bày.
Thấy trẻ dại đọa-đày thân-thể,
Mãi tranh đua theo thế nhán-hào;
Quên nhìn Đất rộng Trời cao,
Đành vùi bụi cỏ để xao Tánh Trời.
Thần, Tiên, Phật, rao lời cạn tiếng,
Khuyên các con bỏ miếng tu chơi;
Tu cho biết Phật, biết Trời,
Tu cho biết Đạo, biết đời, mới tu.
Trẻ mến Đạo, thầy mù khó dắt,
Trẻ ham đời thì mắc tay phàm;
Xanh, vàng, sợi chỉ ai làm,
Con đường nam, bắc, bắc, nam, ai bày.
Muốn tìm Đạo gặp Thầy mới Sống,
Muốn tìm Thầy chớ vọng phàm tâm;
Con ôi Đạo-Lý cao-thâm,
Lầm sai một mảy hại thầm xiết bao.
Lòng thương xót đồng bào chớ nệ,
Một rún nhau của Mẹ mà ra;
Đông tây nam bắc gần xa,
Dẫu cho khác giống cũng là tình thâm.
Kẻ rù quyến gây mầm xâu-xé,
Lập phái phe chia rẽ thịt xương;
Lời ngon ngọt tợ như đường,
Nếu con nhẹ dạ mắc lường uổng-oan.
Con phải đến Đạo-Tràng Chơn-Lý,
Mới không còn có quỉ nơi Tâm;
Đạo-Tràng Thầy lập phải tầm,
Phải tầm cho gặp đặng chăm học hành.
Trời đã phú Tánh lành sáng suốt,
Thì con là con ruột của Trời;
Con Trời đâu có cãi lời,
Con Trời đâu có tiếng đời nhạo khinh.
Khuya những tối tự mình con xét,
Con xét con, con biết lấy con;
Con ôi Tánh Đức cho tròn,
Đừng ham những thói bôn chôn nhộn nhàng.
Chị em cũng một đoàn thua sút,
Giờ rảnh-rang phải học mới nên;
Học thì chí phải cho bền,
Học bền mới có tuổi tên với người.
Khi đi, đứng, khi cười, khi nói,
Lúc nằm, ngồi, lúc hỏi, lúc thưa;
Con ôi lễ-nghĩa chẳng vừa,
Nếu con thưa thớt ai chừa cho con.
Phận nhi nữ phải tròn danh-dự,
Nết đoan trang con giữ lấy con;
Tiếng thơm, tiếng nổi như cồn,
Tiếng nhơ, cũng nặng như hòn Thái-Sơn.
Muốn rõ Đạo chớ sờn công-quả,
Công quả bòn chớ khá từ nan;
Muốn thông công quả rõ-ràng,
Công càng bền vững, quả càng lớn-lao.
Công-đức được dày, cao, chói-rạng,
Công-nghiệp càng rọi bảng Ngọc-Kinh;
Sao cho công vững như thành,
Sao cho quả được trổ nhành, đơm hoa.
Phận nhi-nữ ngọc-ngà thân thể,
Công quả cho rành rẽ đường sai;
Công cao, phước mới được dài,
Công dày, đức mới vững tày núi sông.
Muốn được quả phải trồng nên quả,
Quả muốn trồng giống chạ chớ ương;
Con ôi phận gái đoạn-trường,
Đoạn trường càng phải tìm đường cho nên.
Mẹ đã dạy công bền mới được,
Công dày công được phước mới bền,
Học hành công khó mới nên,
Biến lười phải vướng vào nền tớ-tôi.
Mẹ đã dạy vun-bồi công-quả,
Con phải rành công cả của con;
Con nào công nấy vuông tròn,
Công nào quả nấy chẳng còn đợi chi.
Mẹ cũng biết nữ-nhi phận gái,
Mẹ sẽ trao phần dạy có người;
Con ôi công chớ biến lười,
Con ôi Mẹ đã ráo lời khúc-nôi.
Con phải biết luân-hồi nên sợ,
Luân-hồi làm nên nợ vô-minh;
Muốn cho công được viên thành,
Thì con khá ráng học-hành cho thông.
Kẻ dối-trá cuồng-ngôn khả-ố,
Mà làm tuồng dạy dỗ tròn, vuông;
Các con là gái quê môn,
Các con đâu rõ vuông, tròn là chi.
Các con hãy kỹ suy chính xét,
Thầy có đâu la lết dạo-đường;
Thầy đâu làm mặt trò-phường,
Thầy đâu tán-tận thiên-lương khuấy đời!
Con đã gọi con Trời thế-hạ,
Con phải mau hối-quá tự-tân;
Con sao chẳng chịu nhựt-tân,
Mà con lại muốn tránh luân-xa-hồi?
Bánh luân-xa lăn rồi chẳng đợi,
Nếu vướng vào con mới định sao?
Con ôi thiên-võng nan đào,
Đừng trông Bắc Đẩu Nam Tào cứu nguy.
Muốn cứu nguy chẳng chi lạ nữa,
Con khá lo tự sửa lấy mình;
Sửa mình cho được bất sinh,
Sửa mình cho được tiền trình vẻ-vang.
Nói đến con trăm đàng chua xót,
Mẹ xiết bao lệ giọt đượm tuôn;
Thấy con sa hố lạc truông,
Cũng vì con mãi làm tuồng khéo-khôn.
Càng khôn-khéo càng dồn cát bụi,
Khéo khôn chi với tuổi hồng-trần;
Hồng trần khôn-khéo nhố-nhăng,
Khéo-khôn theo buổi hồng-trần ích chi?
Kìa trước mắt con suy cho kíp,
Cuộc bi, hoan, ly, hiệp, mấy hồi;
Các con chẳng rõ cơ Trời,
Nắng, mưa, lạnh, nóng, mấy thời đó con.
Trời bình tĩnh thoạt còn nổi gió,
Trăng làu làu lại trổ mòi mưa;
Đừng ai khoe sớm, nói trưa,
Năm còn tháng thiếu, ngày thừa, phải sai.
Lời rỉ-rả canh dài Mẹ dạy,
Tiếng nỉ-non phải quấy Mẹ bày;
Con ôi gắng chí theo Thầy!
Ngọc-Kinh mới được có ngày đoàn viên.
Cơ họa-phước nhãn tiền mấy lát,
Cũng đều do khổ lạc chẳng tường;
Khổ kia ai tạo mà vương?
Lạc nầy ai bỏ, ai duồng lại chê!
Phải xét kỹ rõ bề khổ lạc,
Khổ tại đâu mình chác vào mình;
Tại mình nuôi cái vô-minh,
Vô-minh nào phải Trời sinh mà ngờ!
Kìa đuốc-tuệ ánh bờ Chơn-Lý,
Thầy đã khai rọi chỉ đường ngay,
Thuyền nghiêng, sóng ngược, phải quày,
Đừng khoe mạnh-bạo rủi tay lái lèo.
Người trí-thức coi dèo thời-thế,
Chớ hững hờ lầm kế tinh-ranh;
Con ôi phận gái mỏng-manh,
Thương con Mẹ chỉ mối manh con tường.
Đêm đã cạn Mẹ càng than-thở,
Bỏ tánh phàm xem-chị nhắm em;
Đạo dường gió tạnh sóng êm,
Con nào mến Đạo phải tìm đường Chơn.
Biết sao kể nguồn cơn sau trước,
Ham tự do con vượt ra đi;
Tự do nó có ích gì,
Tự do càng lắm càng suy tinh-thần.
Trẻ hối ngộ Mẹ mừng cho trẻ,
Rán lo tu kẻo trễ thời kỳ;
Gặp Thầy con rán qui-y,
Càng cho biết lễ, biết nghi, mới rằng.
Mẹ dạy con chẳng ngừng lời nói,
Con nghe lời đừng gọi phui pha;
Đêm khuya nguyệt xế trăng tà,
Con so bóng nguyệt còn là bấy nhiêu?
Duyên tứ-giả lắm điều dối trá,
Cuộc tuần-hoàn vay trả, chẳng thôi;
Lánh xa cái bánh luân-hồi,
Khá mau tỉnh ngộ vun-bồi Chơn-Linh.
Vững Chơn-Linh phải thinh Tâm-Tánh,
Nhìn Ngọc-Kinh là cảnh quê nhà;
Rảnh rang cái kiếp phù hoa,
Lặng Tâm, êm Tánh, mới là gọi con.
Mẹ  vì con lưỡi mòn đôi đoạn,
Mẹ vì con lời cạn mấy phen;
Công dư kết bạn với sen,
Công dư đâu để làm quen với bèo!
Chừa cái tánh tự-kiêu tự-đắc,
Mới có ngày gần Phật gần Trời;
Trời  tuy lộng-lộng vơi-vơi,
Nhưng Trời ở tại mấy lời Mẹ đây.
Con nghe Mẹ, Mẹ khuây-khỏa dạ,
Mẹ nhìn con, con hả hớn lòng;
Con ôi mau kíp trùng-phùng,
Đến đài Kim-Khuyết hiệp cùng chị em.
Lời tâm-huyết Mẹ đem tường-tận,
Khuyên con thơ yên phận tu hành;
Muốn cho gọi được gái lành,
Thì mau cải dữ, mới rành chơn tu.
Đừng phân-biệt trí, ngu, thêm hại,
Đố ai tường khôn, dại, là chi?
Trăm điều, đều tại Hóa-Nhi,
Đừng đem phàm tánh mà khi mà lầm.
Mẹ căn-dặn tu Tâm cho lắm,
Tu Tâm rồi, Tánh bẩm mới trong;
Tánh Tâm tuy cũng nơi lòng,
Mẹ còn lo ngại con không rõ đàng.
Lòng thương con ngổn-ngang trăm mối,
Muốn cho con tránh khỏi luân-hồi;
Nầy con Tâm, Tánh, bởi Trời,
Nầy con Tâm, Tánh, bởi người phá hư.
Phật thường gọi Chơn-Như Tâm-Phật,
Trời đã cho Minh-Đức Tánh-Trời;
Tánh Tâm trong sạch là Người,
Tánh Tâm xảo trá là đời đó con.
Đã gần trót đêm tròn Mẹ giảng,
Giảng cho con mấy đoạn éo le;
Phải nhìn Đất chở Trời che,
Phải nhìn cho kỹ đặng nghe đặng làm.
Đời gió bụi hiểm nham bớ trẻ,
Có thiện căn mới dễ tránh đời;
Tránh đời còn phải nghe Trời,
Nghe Trời thì phải nghe lời Mẹ khuyên.
Kẻ có phước thiện-duyên mới gặp,
Gặp thiện-duyên ráng tập mà làm;
Làm thì Nhứt-Đức, Nhứt-Tâm,
Nhứt-Tâm Nhứt-Đức Mẹ chăm nom liền.
Thầy đã dạy Mười Khuyên ráng nhớ,
Lại lắm khi nhắc nhở trăm điều;
Khuyên con Tâm-Huệ ráng khêu,
Ráng khêu cho tỏ đặng theo mới mầu.
Bề cư-xử sồng-nâu đạm-bạc,
Chớ kêu-đòi đài-cát trâm-anh;
Trâm-anh để gọi gái lành,
Trâm-anh nào phải sứa-sanh bề ngoài.
Mẹ dạy con chẳng nài lao khổ,
Tánh phàm khuyên ráng bỏ ráng chừa;
Ráng đem lại Tánh Trời xưa,
Ngọc-Kinh sớm bước chờ trưa trễ chầu.
Đuốc Chơn-Lý làu-làu Thầy rọi,
Nơi Trung-Ương đặng gọi các con;
Bòn vàng sông Lệ nên bòn,
Tìm châu tìm ngọc non Côn đến tìm.
Cây mát-mẽ có chim khôn đậu,
Kẻ hiền lành noi dấu Từ-Bi;
Từ-Bi Bác-Ái Thầy ghi,
Từ-Bi Bác-Ái Tam-Kỳ vẻ-vang.
Mẹ đã dựng nền vàng, tảng ngọc,
Con biết lo săn-sóc đêm ngày;
Ân-cần mực-thước đừng sai,
Thì con sẽ được dẫy-đầy Ơn-Trên.
Thăng.