Thứ Bảy, 23 tháng 10, 2010

Tu Chơn Thiệp Quyết



TU CHƠN THIỆP QUYẾT


NGỌC lịnh ban hành khải cửu cung,
HOÀNG môn xuân sắc, tượng ung dung,
THƯỢNG hành hạ hiệu đô công quả,
ÐẾ Ðạo hoằng khai chiếm thượng phong.
Cung Bạch-Ngọc ngự lâm bửu tọa,
Thọ chư Thần triều hạ đã yên, (1)
Thân thân giá hạnh Nam-Thiên,
Trước xem Tam Giáo, cháu Tiên con Rồng. (2)
Ðã đôi kiếp dày công nhọc sức,
Dạy chúng-sanh kỉnh Phật thờ Trời,
Thương thay cũng tại số người,
Ngạo lời Thánh-Huấn, kỉnh lời quỉ vương!
Lòng chẳng kể cang thường là đạo,
Dạ hằng lo hung bạo làm đầu,
Thấy vầy, THẦY phải nghĩ sâu,
Tam-Kỳ Phổ-Ðộ năm Châu phen nầy.
Lời Thầy phán, rẽ mây, vén ngút,
Kinh Thầy ban, chạm ngọc khảm vàng,
Khác nào rọi đuốc chỉ đàng,
Khuyên con tạc dạ ghi xương chớ rời.
Sách chép chữ: "Khôi khôi Thiên-võng",
Ðời ghi câu: "Lộng lộng lưới giăng",
Nhặt thưa, mau chậm, cân phân,
Mựa rằng sơ sót, mắt Thần không sai.
Thầy đã dạy nhiều bài vàng đá,
Con nỡ đành chẳng dạ sắt đinh,
Con hư, Thầy phụ chẳng đành,
Con nên, Thầy được phỉ tình ước ao.
Ðời hằng nói: "Trời cao có mắt",
Sách thường biên: "Thái nhứt vô hình", (3)
Minh mông, đồ sộ, rộng thinh,
Mà soi xét đủ tình hình thế gian.
Ðây giáng bút ít hàng vắn tắt,
Ðặng trao lời vuông tấc nhiệm mầu,
Chớ rằng: chẳng tiếng cao sâu,
Khuyên thường chữ dạ, mựa hầu sai ngoa.
Ơn cúc dục: Công Cha, Nghĩa Mẹ,
Ðức sanh thành: nuôi bé, dạy khôn,
Tục rằng: "Cây cội nước nguồn",
Cây xanh nhờ có nước luôn tư mùa.
Cùng bạn tác, không dua, không nịnh,
Với anh em, đừng phỉnh, đừng phờ,
Thấy người quyền quý đừng mơ,
Gặp người hoạn nạn chớ lơ lảng lòng.
Ðạo Quân-Tử, vợ chồng gây mối,
Mối cang thường, dòng dõi trổ nên,
Một lòng một dạ vững bền,
Sớm khuya dạy bảo, nhủ khuyên ngọt ngào.
Tình máu mủ đồng bào cốt nhục,
Cũng rún nhau, một cục xắn chia,
Ðừng toan chước quỉ phân lìa,
Ở cho hòa nhã, tiếng bia danh đồn.
Ðạo thần tử, lo tròn phận sự,
Nghĩa tôi con, nắm giữ thân danh,
Sao cho công toại danh thành,
Sao cho muôn thuở sử xanh tên đề.
Cân Tạo-Hóa nhiều bề mắc mỏ,
Máy Kiền-Khôn hiếm chỗ cam go,
Nước đời sâu chống, cạn dò,
Ðừng chơi biển thẳm, chớ mò lạch khơi.
Thần Tiên đã bày lời trung chánh,
Thánh Hiền còn thêm gánh nghĩa nhơn,
Thương đời, chẳng biết công ơn,
Chê bai thấp thỏi, chờn vờn cầu cao.
Muốn đặng ngọc thì vào non thẳm,
Muốn tìm vàng phải ngấm biển sâu,
Muốn cho phú quí, công hầu,
Thì tua gắng chí dãi dầu tuyết sương.
Ai cũng muốn Tây Phương lạy Phật,
Sao không lo Thánh Thất chầu Thầy,
Vì con, Thầy mới đến đây,
Cạn phân lợi hại, tỏ bày thiệt hơn.
Phải tích đức, tu nhơn làm trước,
Lo tu thân, tác phước cho cần,
Trên đầu có Thánh, có Thần,
Có Trời, có Phật cầm cân chẳng lầm.
Ðừng tưởng chỗ tối tăm chẳng thấy,
Chớ tưởng điều phải quấy không soi,
Có câu: "Khuynh phúc tài bồi", (4)
Nước sông ròng kém, máy Trời vần xây.
Vầng nhựt nguyệt đêm ngày soi xét,
Lẽ âm dương hàn nhiệt giao thông,
Có câu: "Thiên Ðịa chí công",
Họa dâm, phước thiện, mảy lông chẳng chừa. (5)
Ðừng tưởng lấy vải thưa che Thánh,
Chớ tưởng dùng sức mạnh qua Trời,
Ðáng thương mà cũng đáng cười,
Vì lòng kiêu ngạo dễ ngươi cao dày.
Lòng bất nhẫn, thêm bày ít đoạn,
Dạ từ bi, phụ giảng vài bài,
Khuyên con tạc dạ chớ sai,
Khuyên con chớ thấy dông dài bỏ qua.
Nên xa tránh dâm tà sắc dục,
Hư thân danh, điếm nhục tổ tông, (6)
Hại nầy, thiệt hại vô cùng,
Phật, Trời chẳng chút thứ dung tội nầy.
Vì kiếp trước dẫy đầy âm chất,
Sa mê dâm, phước đức tiêu mòn,
Hại mình, hại vợ, hại con,
Hại luôn sự nghiệp, hại dồn đời sau.
Chước quỉ quái, lòng sâu, dạ độc,
Kế tinh yêu, nước đục béo cò,
Lập mưu thả lưới giăng dò,
Hại người lương thiện, ấm no thân mình.
Người cậy thế khôn lanh xảo trá,
Trời dành phương nhơn quả trả vay,
Phủi tay chẳng kíp thì chầy,
Reo cười chưa thỏa, xin mày, không cơm.
Ðành búng rảy, ngày đơm tháng giỗ,
Nỡ phụ phàng, chim tổ, người tông,
Ỷ mình đủ cánh đủ lông,
Quên ơn Cha Mẹ, phủi công Ông Bà.
Tội bất hiếu, phui pha đâu có,
Chữ vô tư, tỏ rõ phải không?
Kiếm, đao, địa ngục song song,
Ðem vào trước dạy, vở lòng phanh gan.
Chủ lường gạt buôn gian bán lận,
Tớ gian tham, lời chận, lỗ thêm,
Miếng môi chuốt ngót cho êm,
Lường công tiếc việc, dao ghim đầy lòng.
Phường sâu độc, toan phòng ngọt mật,
Tánh cưu mang, nhử bắt giết ruồi,
Mưu sâu gẫm lại than ôi!
Hồi đầu báo ứng, kêu Trời muộn thay.
Ngày chí tối, phô bày nanh vút,
Sớm cùng trưa, xúi giục kiện thưa,
Xiết bao kế lận, mưu lừa,
Ôm gồm hai phía, đỏng đưa đôi đàng. (7)
Cậy quyền thế tham quan ô lại,
Giả xưng hô quí phái cao môn, (8)
Líu lo ba tấc lưỡi dòn,
Ðã thâu của báu, lại bòn đồ xưa.
Giọt thán oán như mưa thấy thảm,
Tiếng bi ai dường sấm bên tai,
Sống cho vạn ách, thiên tai,
Thác cho kíp kíp, đầu thai bồi thường.
Dối Thần Phật, gạt lường tế độ,
Phỉnh chúng sanh, tu bổ chùa chiền,
Trọng tăng kỉnh Phật thiêng liêng,
Lòng thành dâng cúng, bạc tiền sá chi.
Nghề đồng cốt, khinh khi Tiên Bụt,
Nghiệp bóng chàng đàn đột hư vô, (9)
Xác Ông, xác Cậu, xác Cô,
Dưng chay, cúng mặn, thế đồ vớt vong.
Chẳng hiểu chữ: Sắc không, không sắc,
Chẳng thông câu: Không có, có không, (10)
Giam vào vô để lao lung, (11)
Chờ ngày Phán Ðoán Ðại-Ðồng thế gian. (12)
Kẻ bợ đỡ, mua quan, bán bạn,
Tánh nịnh lùa, giả dạng cầu thân,
Cũng phường mọt nước, sâu dân,
Phú cho địa ngục trầm luân giam cầm.
Phô những lũ tìm tâm ích kỷ,
Khắp các phường tính kế hại người,
Hại người, mình lại vui cười,
Hỏa khanh địa ngục, đốt đời chẳng dung.
Răn đệ tử: chớ dùng rượu thịt,
Khuyên chúng sanh: rán ít chơi bời,
Sắc tài tửu khí hao hơi,
Gắng công tu niệm thờ Trời tụng Kinh.
Lời Thầy phán phải tin, phải tưởng,
Lời Thầy răn chớ cượng chớ sai,
Tu cho rạng tiếng Cao-Ðài,
Cha hiền, con thảo, trai ngay, gái lành.
Trối những kẻ khinh danh Ðạo cả,
Thây các phường thóa mạ khi THẦY,
Khoe khoang, kiêu ngạo, đặt bày,
Ðền xong tội thế, đến ngày gặp Ta.
Ðiều biếng nhác bởi già nghiệp chướng,
Tánh trù trì, khó hưởng thanh nhàn,
Khuyên con giữ dạ bền gan,
Lòng lo tu niệm, Thiên-Ðàng mau lên.
Mãn những ước thành Tiên, thành Thánh,
Mà quên lo tu tánh, tu thân, (13)
Tu cho bồi đắp thiện căn,
Tu cho trung, hiếu, nghĩa, nhân vẹn tuyền.
Tu là cứu Cửu-Huyền Thất-Tổ,
Tu là cần phổ độ chúng-sanh,
Cầu cho cải dữ về lành,
Cầu cho đất nước thái bình muôn năm.
Tu cho được Thần khâm, quỉ phục,
Tu cho nên thoát tục, siêu phàm,
Công danh, quyền quí, tước hàm,
Mây tan, nước chảy mà ham nổi gì?
Thế thường nói: tu chi cho nhọc,
Ðể mà lo: tước lộc công hầu,
Sao không suy trước nghiệm sau,
Tiền căn, hậu quả, bởi sao được vầy?
Phân năng bón thì cây mới tốt,
Rễ thường tươi thì đọt mới xanh,
Muốn cho cả cội sung nhành,
Tu hành lo trước, sau đành thảnh thơi. (14)
Thầy thương xót bùi ngùi kẻ dại,
Muốn thành công mà lại ngao du,
Phật mang tám nạn cũng tu,
Thầy còn muôn kiếp công phu dãi dầu.
Ai dẫu được công hầu khanh tướng,
Mà không lo tiếp dưỡng, tài bồi,
Gốc cây sùng đục đã rồi,
Không trông nứt mục, nảy chồi, đơm bông.
Tu phước đức, bền lòng cho lắm,
Tên quỉ vương hay nhắm người tu,
Mũi tên đã độc lại mau,
Ghim nhằm một mũi, khó hầu gở ra!
Tên nó sắm những là: rượu bọt,
Tên nó giồi: gái tốt, vàng ròng,
Muôn ngàn tên độc vô cùng,
Vương nhằm một mũi thì không còn hồn!
Tu thì chớ bôn-chôn nóng-nảy,
Tu thì cho phải quấy phân minh,
Chánh, tà, chơn, ngụy, được rành,
Phật Trời mới chứng cho mình rằng tu.
Tu cho được: phụ từ, tử hiếu,
Tu cho thành: huynh hữu, đệ cung,
Gái tu: tứ đức, tam tùng,
Trai tu: nhân, nghĩa, hiếu, trung, làm đầu.
Thế tưởng vậy là tu Nhơn-Ðạo,
Nào hay rằng: Thiên-Ðạo bởi đây,
Chẳng lo Nhơn-Ðạo cho dày,
Mong thành Thiên-Ðạo mặc may làm gì?
Phật đã dạy Tam qui, Ngũ giới,
Ðời chẳng tuân để hại ngươn-thần,
Bởi thương nên mới phân trần,
Vì thương nên mới ân cần nhủ khuyên.
1-       Một khuyên phải kiền thiền mộ Ðạo, (15)
2-       Hai tuân lời Tam-Giáo Thánh Nhơn, (16)
Ðạo là chí chánh, chí chơn,
Những lời Thánh-Huấn chạm xương ghi lòng.
3-    Ba khuyên nhớ tổ-tông công đức,
4-       Bốn lo tu đúng bực cang-thường,
Cha sanh, Thầy dạy kỹ cương,
Anh em bạn tác, náu nương vợ chồng.
5-       Năm khuyên nhớ kẻ nông công khó,
6-       Sáu xót thương nông phụ nhọc nhằn,
Cày sâu, cấy cạn, bón phân,
Làm nên tơ chỉ trăm phần lao đao.
7-       Bảy liên lạc đồng bào huynh đệ,
8-       Tám khuyên đừng xua mị quyền môn,
Sao cho tiếng ngợi danh đồn,
Ðáng trang đạo đức, phải tôn, phải vì.
9-       Chín khuyên chớ khinh khi cô quả,
10-       Mười khuyên tua hỷ-xã lỗi người,
Khuyên đừng biết giận hờn ai,
Xót người hoạn nạn, cứu nơi cơ hàn.
Ðược vậy mới gọi trang tu tánh,
Tánh tu rồi mới định tu tâm,
Càng tu, càng thấy cao thâm,
Càng tu, càng thấy sự lầm lạc xưa.
Biết lầm lỗi thì chừa cho gấp,
Ðặng mau lo bồi đắp cội lành,
Như vầy mới gọi tu hành,
Như vầy mới gọi chứng minh Bồ-Ðề. (17)
Khuyên con phải kiêng dè cho lắm,
Mười lời khuyên như tẩm Cam-Lồ, (18)
Ðêm ngày dầu tụng Nam-Mô,
Mà không noi giữ, nhành khô, rễ còi.
Mừng con đặng có mòi tấn phát,
Rưới cho con nước mát mùi thơm,
Bốn mùa hoa nở trái đơm, (19)
Hơi bay bát ngát, nhụy tươm ngọt ngào. (20)
KỆ VIẾT:
1-     Giáng cơ chỉ rõ máy Kiền-Khôn,
Ghi chép vài trang sách Thánh-Ngôn,
Luân-lý cang-thường nên cả cội,
Nghĩa-nhơn, trung-hiếu vốn sâu nguồn.
Thành chơn, phước bởi công vô lượng,
Ðắc Ðạo, ơn nhờ Ðức Chí-Tôn,
Khuyên nhủ các con tua gắng chí,
Tam-Kỳ muôn thuở tiếng bia đồn.
* * *
2-     Tiếng bia đồn để ức muôn năm,
Khuyên thế đừng tu độc hiểm tâm,
Thầm tối mưu gài chông lễu lễu,
Cao xanh lưới bủa dạng tăm tăm.
Vô thường chẳng sợ tay oanh liệt,
Quỉ tốt nào kiêng bực phẩm hàm,
Thiện ác đáo đầu vai có trả,
Hoàng-Thiên hữu nhãn chắc không lầm.
* * *
3-     Chắc không lầm lỗi tiếng Mười Khuyên,
Thì được tên đề bảng Ðịa-Tiên,
Muốn hưởng lâu dài nền hậu quả,
Phải lo bồi đắp cảnh tiền duyên.
Làm lành, lánh dữ câu thành ngữ,
Tốt đất sung nhành lẽ tự nhiên,
Chí dốc siêu phàm, lên cõi Thánh,
Phải lo vun tưới miếng Tâm-Ðiền.

      Các con! Thầy dạy bài "Tu-Chơn Thiệp-Quyết" nầy là chỉ đường ngay lẽ chánh cho các con đi, nẽo vạy thói tà cho các con sửa.
      Trong lúc Thầy truyền Ðạo đây, thì chư Thần Tiên ủng hộ theo Thầy, tường vân che phủ, thoại khí bao quanh. Lại có Văn-Xương Ðế-Quân ghi chép vào Kim-Thơ Ngọc-Sách hầu để vào "Toàn-Kinh Bửu-Viện".
      Ba bài kệ các con phải giữ dạ nằm lòng, ngày đêm truyền tụng chớ khá bỏ qua. Vì tụng Kinh nầy đây thì Tứ-Trị Công-Tào Sứ-Giả thảy hằng nghe mà biên chép công quả.
      Thầy dạy Bổn-Mạng Nguơn-Thần của mỗi con xét coi trong lúc rảnh rang có trau giồi Ðạo-Ðức như lời Thầy phán chăng?
      Các con hãy nghe, chớ rằng Thầy không nói trước.
      Bài "Tu-Chơn Thiệp-Quyết" có 64 vé, 256 câu, 1792 chữ, cộng với ba bài Kệ là 1960 chữ.
Lời nào Thầy đã dỉ hơi ra,
Vàng, ngọc, gìn trau chớ bỏ qua,
Cung kỉnh, ấy là nền đạo-đức,
Kiêu căng, vốn thiệt gốc yêu tà.
Ngươn-Thần chiếu mạng người trung chánh.
Nghiệp chướng trì chơn đứa xảo ngoa,
Ðừng tưởng Trời cao mà giả dối,
Mắt Thần như chớp, khó phui pha.
      Các con! như có người nào ở ngoài vòng cửa mà muốn cho rõ mùi Ðạo lý của Thầy, thì các con cũng nên xét và dạy chúng nó bài "Thiệp-Quyết" nầy.
Khuyên đời bỏ dữ, đặng theo lành,
Ấy cũng là điều giúp chúng sanh,
Tiên, tục, thấp, cao, lời giác đác,
Nên, hư, chỉ rõ tiếng đành rành.
Thiên duyên yếu mối, năng thưa thớt,
Nghiệp chướng già cây, khó rắp ranh,
Vững lái êm chèo thuyền tế độ,
Ðưa người đến bến, mựa cành nanh.
* * *

C H U N G
       (Bài "Thiệp-Quyết" nầy là bài giáng cơ tại Thánh-Thất Kiên-Giang ở Rạch-Giá, đêm 24 tháng 3 âm lịch năm Canh Ngọ, 22-4-1930).




Chú Thích:
      (1) Ðức Thượng-Ðế lâm trào ngự trên Ngai báu tại Cung Bạch-Ngọc, chịu cho các Thần, Thánh, Tiên, Phật chầu mừng xong rồi bãi chầu.
      (2) Chính mình Ngài ngồi xe loan xuống chơi nước Nam xem các môn đệ là con nhà Việt-Nam khai đàn thờ Tam Giáo thế nào.
      (3) Một vòng Vô-Cực trống không, chẳng có hình tượng Trời Ðất vật chi cả.
      (4) Khuynh-phúc là nghiêng đổ. Tài bồi là vun trồng đắp lại. Nghĩa là người làm ác thì bị tai họa và sụp đổ nghiêng ngữa, gia sản tiêu điều. Còn người làm lành nhơn đức tu hành thì được bồi bổ tinh thần và vật chất.
      (5) Họa dâm là họa tới liền liền. Phước thiện là phước dành sẵn. Nghĩa là người làm ác thì Trời cho họa tới liền liền. Còn người làm lành, tu hành đạo đức thì Trời dành sẵn ban cho sự may mắn và hạnh phúc.
      (6) Chữ điếm nhục là xấu hổ. Con người ta linh tánh hơn loài vật là biết giữ cang-thường luân-lý, vợ chồng có cặp, nhược bằng chồng chung vợ chạ (tà dâm) thì không giữ được cang-thường luân-lý và làm cho xấu hổ tổ tông ông bà và dòng họ.
      (7) Hễ việc kiện thưa thì có người nguyên đơn và kẻ bị cáo, mà đã ôm việc bên nguyên, lại gồm việc bên bị, nhiều lời đẩy đưa đôi đàng như đòn xóc hai đầu, đặng mà lợi dụng 2 đàng ăn tiền và hối lộ cả 2 bên.
      (8) Xưng ông kia là chú bác, thầy nọ là anh em, đều là người cự phú cự quí, hết lòng giúp đỡ, lo chi là thất kiện.
      (9) Nghề đồng cốt là nghề tà thuật giả dối mà lường gạt những người nhẹ tánh tin càng. Nó khi dễ Tiên Phật mà giả danh ông nầy bà nọ đặng mà gạt đời. Những bóng chàng thường nói tướng ứng nói càng những lời vô bằng cớ và láo xược mà gạt gẩm thiên hạ đặng lấy tiền.
      (10) Chữ "Sắc Không, Không Sắc": trong Tâm Kinh nói trong cõi tạm nầy phàm vật chi có sắc tướng đều là vật tạm, phải có một ngày hư nát, "Sắc tức thị không" nghĩa là vậy.
      Còn như linh hồn không thấy sắc tướng chi mà thiêng liêng đời đời bất tiêu bất diệt, "Không tức thị sắc" nghĩa là vậy.
      Câu "Không Có", nói Ðạo Tiên-Thiên vô cực, trống không, Ðấng Tạo-Hóa nhơn không mà gầy dựng có Trời Ðất muôn vật, chữ rằng: "Tùng vô như hữu". "Có Không", nói Ðạo Hậu-Thiên Thái-Cực sanh hóa muôn vật, song muôn vật hễ có hình phải có hoại, chữ rằng: "Tùng hữu như vo⦣34;.
      Chữ Sắc là thuyết Có, chữ Không là thuyết Không. Trong thế gian nầy không có gì hết mà tại mình muốn nói Có là Có, muốn nói Không là Không. Tỉ thí như còn sống có của nhiều, ruộng đất cò bay thẳng cánh là thuyết , đến chết không đem theo được là thuyết Không; vợ thì lấy chồng khác, ruộng đất người khác cày, nhà cửa người khác ở, con cái người ta xài, ấy là lời ông Trang-Tử lúc vợ chết vỗ bồn ca.
      (11) Vô để lao lung: nghĩa là "Chuông lồng không đáy", tức là địa ngục, âm khí ngưng kết thành hình ma, tượng quỉ, hoặc thú dữ, rắn độc ở vòng bốn phía, hình như chuồng lồng vậy. Những người hung dữ phần hồn trọng trược sa đọa vào đó, bị khí âm vấn vít không phương giải thoát.
      (12) Giam vào chuồng lồng đó chờ đúng kỳ phán đoán Ðại-Ðồng thế gian (tức là đến kỳ Long-Hoa Ðại-Hội) Tòa Tam-Giáo sẽ đem ra phán xét. Tội nhẹ thì còn đi đầu thai theo lục đạo luân hồi, còn tội nặng hồn sẽ bị hỏa khanh đốt thành tro bụi, muôn kiếp không trở lại làm người được.
      (13) Tu tánh tu thân: nghĩa là "Tu tánh lập mạng". Tỉ thí như tánh mình dễ phóng túng sa vào tứ-đỗ-tường, lâu ngày lụy vào một hay là nhiều cửa thì cái thân mình chịu sao nổi với những phản ảnh của nó nên phải chết yểu, thì đâu còn ngày giờ mà lập mạng nghĩa là tu hành đặng siêu thoát. Con người ai cũng phải song tu tánh mạng hầu lúc sống được khỏe mạnh thanh nhàn, lúc chết linh hồn được siêu thoát.
      (14) Kiếp trước có tu nên kiếp nầy mới được giàu sang phú quí. Vì vậy, kiếp nầy phải tu hầu kiếp sau đặng siêu thoát lên một thế giới rực rỡ tốt lành hơn thế giới nầy (quả địa-cầu thứ 68 mà chúng ta đang ở) tùy theo công quả.
      (15) Nhập môn cầu Ðạo phải có lòng cung kính, thành nhiệt, yêu mến nền Ðạo đặng tu tâm sửa tánh, ấy là người tu thiệt, lo chi chánh quả không thành.
      Như có dạ ham vui, hoặc có lòng lợi dụng mà nhập Ðạo, là người tu giả, chẳng khỏi linh hồn sa đọa.
  (16) THÍCH: Phật dạy minh tâm kiến tánh.
          ÐẠO:     Tiên dạy tu tâm luyện tánh.
          NHO:     Thánh dạy tồn tâm dưỡng tánh.
      Phải vâng lời Tam Giáo dạy rằng: Một lòng tu thiệt.
Thân sau chẳng Phật thì Tiên,
Chẳng Thần, chẳng Thánh, cũng quyền công-khanh.
      (17) Bồ: là phổ-độ.     Ðề: là cứu tế.
      Thể theo lòng Trời tánh Phật phổ cứu nhơn sanh, công quả tròn đầy sẽ đặng siêu chứng Bồ-Ðề vào cõi Niết-Bàn. Bồ-Ðề là chánh giác.
      (18) Giữ trọn 10 điều khuyên, đặng tìm Ðạo Tiên.
      Giềm lòng nước Phật, trong lặng chơn như, chẳng hề phiền não, tự nhiên trong mình mát mẻ, như tắm nước Cam-Lồ vậy.
      (19) Người tu thiệt đắc quả rồi thì trí huệ rộng lớn nở nang, nắng chẳng héo khô, mưa không rụng rớt, bốn mùa tươi tốt, như bông sen nở vậy.
      (20) Người tu thiệt thành đạo rồi, khi giảng Kinh thuyết Pháp, mùi Ðạo bát ngát, thơm tho, huệ lan không sánh mùi thơm, mai cúc đều thua hơi ngát, tợ hương sen thơm vậy.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét